Nguyệt San phát hành định kỳ vào mỗi đầu tháng

www.GiaoMua.com

Nguyệt San Giao Mùa
P.O.Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

GiaoMua@hotmail.com

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Số 241

Ngày 1 tháng 5 năm 2022

Home | Giao Mùa (Unicode) | Giao Mùa (Vietnet)
Những Số Cũ | Thư Ngỏ | Liên Lạc

Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Ðinh Trường Như (TK Trung Kỳ)

Ban Biên Tập:

Mạc Phương Ðình, Phan Thái Yên

Chung Thủy, Nguyễn Thị Thanh Dương

& TK Trung Kỳ

Mọi bài vở đóng góp xin gửi về GiaoMua@hotmail.com

Web Counters

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors

++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.

I . Thơ _______________________________________________________________________

1. Tháng Tư Buồn Lâu ______ Trần Huy Sao
2. Trang Sử Việt ______ChinhNguyen/H.N.T.
3. Mong Một Lần ______Hàn Thiên Lương
4. Rừng Khóc ______ Sông Cửu
5. Tặng Sáng Ngọc ______ Vân Hà
6. Ngày Ðó Rồi Sẽ Ðến ______Quách Như Nguyệt
7. Chùm Thơ: Ðặng Xuân Xuyến ______ Ðặng Xuân Xuyến
8. Giao Khúc Giữa Ðời ______ Viễn Phương
9. Lời Thơ Ðộc Vận ______ Tình Hoài Hương
10. Dòm Lên Mây Trắng ______Nam Thảo
11. Người Bạn Phi Ðoàn 219 ______Nguyễn Thị Thanh Dương.
12. Giữ Tâm Vui Dù Hoa Hồng Trắng Ðang Cài ______ Phạm Huỳnh
13. Ðêm Trắng Nhớ Người ______ Nguyễn Chí Hiệp
14. Tôi Quên Sắc Lá ? Tử Sinh Hôn Hoàng ______ Lê Miên Khương
15. Chùm Thơ Viết Ở Bệnh Viện ______ Phạm Ngọc Thái
16. Lạc Vào Vô Vọng ______ Hồ Thụy Mỹ Hạnh
17. Ðành Thôi! Phần Số ______ Thylanthảo
18. Giày Saults ______ Bạch Liên
19. Tháng Tư Của Người Vuợt Biển ______ Kim Loan
20. Lục Bát Tháng Năm ______ Tuyền Linh

II . Văn _______________________________________________________________________

1. Cô Giáo Thời `1975 ... ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhìn ___________ Tình Hoài Hương
3. Rau Bông Gòn ___________ Bạch Liên
4.Dạy Trẻ Có Thú Vui Ðọc Sách ___________ Vũ Thị Hương Mai
5. Trò Chuyện Với Khoảng Không Trước Mặt ___________ Tuyền Linh
6. Một Cái Nhìn Lệch Lạc Của Lịch Sử Văn Học ___________ Hoàng Long Hải
7.Phở Của Việt Nam Hay Của Tây Của Tàu ? ___________ Phạm hy Sơn
8.Ðọc Tháng Tư Màu Nhớ ___________ Ðặng Xuân Xuyến
9.Những Cuộc Phỏng Vấn. ___________ Trần Thị Hiếu Thảo
10.Tấm Giấy Ra Trại ___________ Nguyễn Ðịnh

III . Tin Tức /Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________

1. Tin Tức/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập

I . Thơ __________________________________________________

1. Tháng Tư Buồn Lâu  
 
 

không thấy buồn riêng mổi tháng trong năm
chỉ có tháng Tư buồn lâu trấu cắn
buồn dày cui xếp lớp dày có ngấn
nổi cộm thêm ngần năm mấy mươi năm! 

...thuở củi ngo um khói nồi khoai sắn
mắm kho queo mớm cơn đói cồn cào
vợ giáo chức cho về nhà dứt cháo
chồng nhà binh vô bấu-rào-kẽm-gai... 

tôi viết bài thơ-tháng-tư nhớ lại
em đứng ngoài rào ôm giỏ thăm nuôi
tôi trong rào lòng đau như xát muối
chiều đổi đời loang đỏ dáng quê nhà 

lon ruốc Sả gói thuốc lào 888  
được ngó nhau mười phút rồi chia xa
đâu kịp nói lời nhớ thương... khôn ngạ
đã trong ngoài ngăn cách rào kẽm gai 

chiều đó em về nhớ thương ở lại
chiều đó...Thôi, không thể nói nên lời
giờ mổi chiều qua suốt chặng chiều đời
tôi vẫn nhớ chiều-chị-nuôi, ngày đó...


NGƯỜI CHỊ NUÔI
 

tôi mần Thơ ới gọi tháng Tư Ðen
không biết ai còn nhớ quên đen đỏ
nếu đỏ thì thôi không ưng gợi nhớ
nếu đen thì xin mến chào thân quen
 
vậy là nhớ rồi không thể giả quên
chiều khói ngo chụm nồi cơm khoai sắn
ngày tháng đói quặn nỗi đau vô tận
thêm nỗi chia lìa tình nghĩa vợ chồng 

giỏ thăm nuôi ngày đó còn nhớ không
người ngoài kẽm gai người trong gai kẽm
ngó thấy nhau mà lòng đau thắt nghẹn
chờ gặp nhau giây lát rồi xa nhau 

một thời tôi chạm thương hải nương dâu
một thời vợ gặp chồng chưa kịp nói
một thời đói uống nước dằn cơn đói
một thời quen phù thủng sốt vàng da 

giờ dặm ngàn xa cứ giữ hoài trong dạ
(hồi bụng trống trơn nhưng dạ thì không)
bụng đói no còn dạ vẫn một lòng
tình nghĩa vợ chồng hai chữ thủy chung 

nói tận cho cùng chỉ là người dưng
sau mới chia nhau vôi trầu cánh phượng
rồi về với nhau chung bếp chung giường
rồi đứng ngoài rào nhớ người trong nớ.. 

khi nỗi nhớ vượt đường xa cách trở
khi tình yêu vượt khó nối đôi bờ
khi người thương đứng trong rào kẽm ngó
rào kẽm ngoài mắt lệ xót xa  đau 

đã từng ngó nhau rồi tôi mới thấu
lòng dạ nào mà bỏ lạc tình yêu
giỏ thăm nuôi ngày đó cũng đâu nhiều
nhưng tình yêu đã vực tôi vượt cạn 

nay ở quê người xa ngàn vạn dặm
tôi còn người-chị-nuôi hôm sớm cận kề
tôi còn nhớ người đứng ngoài rào kẽm
chiều quê xưa mắt lệ ngước nhìn tôi... 

chừng đó thôi gởi tháng Tư vừa tới
sau mấy mươi năm ngợp thở dòng đời
cứ mổi tháng Tư cứ đòi nhớ tới
ngoài rào kẽm gai chị-nuôi-thăm-nuôi... 


CÁI LON GÔ XÔ GIẠT CÁI BÌNH TÔNG

bidon gọi là bình tông
lon gô là sữa Guigoz ngày nào
người chị nuôi đứng ngoài ràotti
tìm người thương đứng nghẹn ngào ngó ra... 

sáng cầm theo cái Rựa vô Rừng Ngo
đem cái lon ?gổ cơm độn muối mè
cái lon gô giờ xướt trầy móp méo
chưa chịu rời nhau bấu rào bao năm 

lần đầu tiên cô-giáo-vợ tìm thăm
có cái lon ghém chặt đầy Ruốc Sả
là lon sữa Guizgo xứ Hòa Lan xa lạ
thằng con đầu lòng uống dặm đây mà 

buổi đổi đời chỉ còn lon ruốc sả
thăm nuôi chồng thôi dặm sữa cho con
khởi từ đó cái lon thành chuyện lớn
từ Guizgo(túm)gọn là lon Gô 

ai đã ?kinh quả  một thời... vô rọ
chắc là khó quên được cái lon gô
hết ruốc sả thì hứng nước tắm khô
hết tắm khô rồi đun trà cơm cháy 

trà cơm cháy cạn thì bạ đâu đựng đấy
đầy cái lon gô chị nuôi nhịn thèm
dành miếng thăm nuôi người trong rào kẽm
người ngoải rào no dói đã thèm quen 

cái lon gô đầy tình yêu vun vén
cô giáo lưu dung cuối tháng xếp hàng
tem phiếu chi li tính lần lên bục giảng
giỏ thăm nuôi mới được đầy lon gô 

cáịlon.gô một thời thời thương khó
năm tháng thủy chung lặn lội thăm chồng
mười phút rồi về thui thủi đợi mong
gởi cái lon gô vun tình ở lại 

giờ nỗi nhớ rượt dặm ngàn xa ngái
cố phủi nỗi đau ngợp thở tháng Tư Ðen
vẫn mè nheo thèm nỗi nhớ khó quên
người-chị-nuôi gô ruốc Sả ngậm ngùi 

hồi cái Rựa vô Rừng Ngo mót củi
cái lon gô xua nghẹn cái bình tông!!!

                                                        
Trần Huy Sao 
Mục Lục


2. Trang Sử Việt (Cảm tác Hồn Nước/ V.Ð.S-ÐÐT) 1-Mây bạc in giòng chữ sử xanh Trường Sơn hùng vĩ thủ công thành* Con Hồng cháu Lạc nghe hồn nước Thúc giục ra quân bước dạ hành (*Hoành Sơn Nhất Ðái Vạn Ðại Dung Thân) 2-Hơn bốn ngàn năm ngát sử xanh Ngân vang tiếng gọi bước quân hành Bình Tây dẹp Bắc nghe hồn nước Bảo vệ giang sơn vạn sự thành ChinhNguyen/H.N.T. Jan.8.2022 (491) Bên Mẹ, Con Luôn Luôn Còn Bé II Mẹ tôi qua đời khi tuổi vàng tương đối thọ Tôi hiện giờ thêm nửa giáp so với mẹ ngày xưa Nhưng luôn luôn cảm thấy vẫn đang sống bên Người Ôi bao kỷ niệm ùa về nhân Ngày Lễ Mẹ ! Mẹ ơi ! Con vẫn mãi là đứa con bé bỏng Không thể nào quên hình ảnh mẹ kề bên Từ thuở thiếu thời cho đến lúc lớn lên Lập gia đình riêng rồi sinh con đẻ cái Ngày xưa ấy Những đêm Ðông lạnh lùng giá rét Ôm vào lòng cho ấm áp con thơ Những ngày Hạ nắng bừng thiêu đốt Quạt cho con mát mẻ giấc trưa Hè Ngày xưa ấy Mẹ tảo tần quảy gánh hàng đi bán Chợ chiều tan con trông ngóng mẹ về Vui thật là vui nhận miếng quà tấm bánh Từ bàn tay âu yếm mẹ trao cho Cũng ngày ấy Rất nhiều lần con bị bênh Lặn lội tìm thày lang chữa chạy cho con Quá mỏi mệt khi ngồi canh lửa bếp Sắc cho xong ấm thuốc Bắc giữa đêm tàn Quên sao được Những ngày con phải đi thi Trung học,Tú tài và Ðại học Bà mẹ quê cứ đứng ngay đầu ngõ Bởi tin rằng chọn được viá hên xui Cũng không quên Mỗi ngày Mồng Một Tết Sáng ngủ dậy đã thấy mẹ sẵn sàng Một chậu nước ấm mùi rau thìa-là Ðể đầu năm con thơm tho cái mặt ...Chuyện dĩ vãng... Kể làm sao cho dứt Ôi tình thương của người mẹ bao la Ðến bao giờ con mới trả được công ơn Sinh,dưỡng,dục mong đời con sung sướng. Ngày Lễ Mẹ. Tôi sống tha hương không thể về thăm chốn cũ Ðành thắp nén hương lòng tưởng niệm mẹ hiền xưa Với bông hồng trắng trang trọng cài lên áo Dấu tích Người về như hiển hiện ở bên tôi Có phải tâm hồn ta không bao giờ thay đổi Nên cứ nghĩ bên mẹ thì cảm thấy không già? Với tuổi tác đang độ mãn chiều xế bóng Lệ đã khô rồi nhưng chưa cạn mối yêu thương HÌNH ẢNH MẸ-CON-BÊN-NHAU VẪN CÒN MÃI MÃI ÐỂ CON THẤY MÌNH BÉ LẠI NHƯ THUỞ XA XƯA. ChinhNguyen/H.N.T. USA May 2022 (518) [Ghi thêm: Những bài thơ về Mẹ trên Giao Mùa: -Bên me,con luôn luôn còn bé I,GM#193 & Ước thầm, GM#233 -Lời ghi trên ảnh mẹ, GM#181 -Mẹ ơi! & Ngày lễ mẹ &Ước mơ, GM#205] ChinhNguyen/H.N.T.
Mục Lục


3. Mong Một Lần
Xin một lần tạ lỗi xóm làng xưa Ðã lâu lắm không về qua ngõ cũ Không nghe tiếng ve sầu giữa trưa trưa Quên bìm bịp kêu sông chiều nước lớn! Mong một lần tìm lại tuổi ấu thơ Thả thuyền giấy xuống sông trôi biền biệt Mê bắt dế quên giờ vào lớp học Ngắm bằng lăng che tím cả khung trời! Mong một lần trở về qua xóm nhỏ Thoảng hương cau gây nỗi nhớ hương tình Lòng ngất ngây nhìn ngôi đình ngói đỏ Kỷ niệm nào vương vấn hội Kỳ Yên! Xin một lần được quỳ bên mồ mẹ Thắp nén hương tạ lỗi đấng sinh thành Ngày mẹ mất con không về tiễn biệt Cuộc sinh ly, năm tháng quá vô tình! Xin trân quí trọn dòng đời lưu lạc Như máu tôi năm tháng mãi tuần hoàn Ban cho tôi một nguồn thơ bất tận Dệt tình yêu son sắt chẳng vong thân!

Hàn Thiên Lương

Mục Lục


4. Rừng Khóc Ngày cuối xuân Người quả phụ Lững thững lên buôn Phía bên kia thượng nguồn Ngồi nghe rừng khóc Một ngôi mộ bên triền dốc Dưới tàng cây Kơ-nia Nằm hứng từng giọt nước mắt Của những chiếc lá xào xạc Theo tiếng gió hú vi vu Ngầy ngật ,,, ấp ủ u buồn! Anh ơi! Em nhớ đêm tháng Tư Dưới làn súng nổ đạn bay Không ai bảo ai Dẫm lên nhau mà chạy... Cây cao gảy đổ chim vỡ tổ bay Kẻ quay về xuôi kẻ quày lên ngược Vợ ôm xác chồng mẹ cõng con thơ Rừng người rừng cây... hổn loạn bơ phờ Dòng suối khóc róc rách nhìn trời Cuốn những chiếc lá bầm dập tả tơi Trôi dài theo dòng sông định mệnh Bỏ lại đôi bên cội nguồn... Sáng nay Dù cơn bão còn vần vũ ngoài bể Ðông Người quả phụ vẫn về đây thăm chồng Chị đặt bó hoa hồng bên cây thập giá Sau ngôi mộ đá triền hốc gốc đa Nắng còn ngoài xa... rừng chồi ngồi khóc Người đàn bà nguyện cầu trong tiếng nấc "Chúa ơi! Ðời dạn dày mưa nắng "Xin thương sót người nằm đây Chờ ngày Chúa trở lại ... Chúa ơi!" Tháng Tư 2022 Sông Cửu TRONG VÒNG TAY ANH ?Nhớ H. diễn viên điện ảnh Sài Gòn bị trúng đạn pháo kích đêm 30/ 4/75? Trong vòng tay anh Ðêm cuối tháng Tư Sài Gòn vang rền đạn pháo Yêu thương bão loạn chở che Hỏa châu lập lòe ẩn hiện Làm biến dạng phố phường... Trong vòng tay anh Em trải nghiệm Bao oan khiêng duyên phần Từ ly tán ... đến bình yên Qua nụ hôn bừng ấm nối liền... TRong vòng tay anh Em từ cánh én Cô đơn Giữa bầu trời mùa xuân tàn muộn... Trong vòng tay anh Em thành chiếc lá xa cành Ngữa mặt ôm trời xanh... Nhìn nụ cười anh Em thấy đường ranh Giữa hổn loạn và bình yên Phũ phàng và chung thủy Dù bè bạn ngoảnh mặt quay lưng Dù sự đời có đổi thay Ngang trái... Dù ruộng đồng chuyển rung Lốc xoáy Dù phố phường đang băng hoại Hoang tàn! Trong vòng tay anh Em vẫn còn niềm tin Quê mình sẽ bình yên! Trong vòng tay anh Vết thương đau nhức Trên thân thể em Trên quê hương.... Ngày mai sẽ được chữa lành... Nhớ về đêm cuối xuân '75... Sông Cửu


Mục Lục


5. Tặng Sáng Ngọc

Cát bụi ! thôi, chị cũng về cát bụi Trời tiễn đưa nên cũng khóc sụt sùi Bảy mươi sáu năm của một kiếp con người Chị sống đủ với sinh già bệnh chết Bỏ lại hết những thương cười giận ghét Nằm xuôi tay, trả lại chốn nhân gian Nào chồng con, cháu chắt với buộc ràng Chị cởi bỏ, về thiên đàng tự tại. Vĩnh biệt nhé chẳng bao giờ thấy lại Chốn dương trần với bè bạn tiễn đưa Ðầy yêu thương dù uớt đẫm dưới mưa Họ vẫn đến để thấy nhau lần cuối Chắc chị cũng ngậm cười nơi chín suối Bởi ân tình ưu ái, những tràng hoa Nguyện hương linh siêu thoát cõi ta bà Cùng gia hộ cho Chồng con, bè bạn Vân Hà Atlanta (Ngày đưa tiễn 5 tháng 4 -2022)

chị Sáng Ngọc ( đeo kính đen )đứng cạnh ông xã ngày ra mắt sách. Khóc Vợ Rồi đó , thôi mình đành vĩnh biệt Bà đi, trời đất cũng quạnh hiu Tôi về, tìm lại trong chăn chiếu Hơi ấm đâu rồi, đâu dáng yêu? Mấy mươi năm lẻ tình chồng vợ Bà đã theo tôi khắp phương trời Ðồng cam cộng khổ, nuôi con dại Tận tụy với chồng, lúc đầy vơi Bà cạnh bên, như hình với bóng Giờ chỉ mình tôi, đêm lẻ loi Nước mắt làm sao nguôi thương nhớ Chổ nằm, còn tôi với đơn côi Thương bà trọn nghĩa làm người vợ Cuối đời, lâm bệnh nặng trầm kha Tôi cũng trọn tình, hằng kề cận Săn sóc, thuốc thang ở bên bà Thôi cũng đầu hàng vì số phận Bà hết nợ đời, đi thảnh thơi Tiên cảnh bà về , tôi ở lại An ủi phận già, cháu con thôi. Thương tặng anh Văn Lang (Trịnh Cẩm Văn ) Vân Hà


Mục Lục


6. Ngày Ðó Rồi Sẽ Ðến Ca sĩ: Thanh Lan (VN) Nhạc: Cao Minh Thu Thơ: Quách Như Nguyệt (523) Ngày Ðó Rồi Sẽ Ðến - YouTube Ngày đó rồi sẽ đến Nếu không anh, đời sống buồn biết mấy Ngày kéo dài, sẽ chán ngấy, lê thê! Em mất đi nhiều cảm hứng, đam mê Lòng băng giá, tim khô cằn sỏi đá Anh yêu em, gian nan vất vả Chưa bao giờ anh than thở, kêu ca Anh yêu em, anh yêu em nhiều lắm! Anh yêu em, tình thắm thiết, đậm đà Cảm ơn anh đã hiểu và thương Cho em biết thế nào là hạnh phúc Không còn anh, lấy ai yêu em nhất Tình của anh dại si, chất ngất Ai yêu nhì, ai bao luôn hạng ba? Ai ôm em, ai chiều chuộng, vỗ về? Chưa hứa thề, nhưng thật sự yêu em! Ai gọi em ?cưng?, ai xưng tên với em Người yêu dấu, người em hằng yêu dấu Có trong tay nên đôi lúc xem thường Em vô tình, đôi khi quên trân quý, viên ngọc anh?quý giá nhất đời mình! Nếu không anh, một mình em cô quạnh Thơ sẽ buồn, thơ khóc lóc, mong manh Vẫn biết trước sẽ có ngày xa cách Nhưng vẫn buồn khi nghĩ đến cưng ơỉ Cho dù sợ, ngày đó rồi sẽ đến Thế cho nên không sợ nữa cưng à Tập sống nhé đời an lạc, vị tha Ta vui hưởng những tháng ngày nhàn nhã Như Nguyệt


Mục Lục


7. Chùm Thơ: Ðặng Xuân Xuyến 20 BÀI THƠ 4 CÂU ÐỘC VẬN Chùm thơ: Ðặng Xuân Xuyến* THÁNG CHẠP - 2021 Lấp ló đầu thôn tháng Chạp về Thốc chiều, cóng lạnh cả triền đê Thoảng xa xa vọng lời kinh kệ Nấc tiếng ai cầu, nghẹn bến mê! Hà Nội, chiều 06 tháng 01-2022 PHỦI - với G - Thư gửi mấy lần, chả hồi âm Ai thấu cho ai cạn lệ thầm Người gì mà phủi như ả Tấm Bẻ khúc tơ lòng ngọng với câm. Hà Nội, 18 tháng 07-2021 GẠ ÐÊM - với M.Q - Lại gạ một đêm! Ừ thì đêm Lại hớt trăng men ở mé thềm Lại lùa gió lạnh nhồi chăn đệm Lại mượn nét Kiều chuốc lả đêm. 21:00, 09 thâng 07-2021 EM TÔI - tặng V yêu - Nắng vẫn tươi nồng hương lúa non Em tôi má thắm đắm duyên giòn Quẩy nắng sang chiều thoăn thoắt gọn Mây vờn gió nựng dáng eo thon. Hà Nội, 09 tháng 7-2021 HỎI ẢNH Chắt kiệt tình nào để cưỡng say Ai dốc cạn đêm để khát ngày Khối tình băng giá ai mồi cháy Môi tái ai chườm để biết say ... 13 giờ 30, ngày 30-06-2021 TƯỢNG ÐÀI - với Ðạo diễn Nguyễn Anh Tuấn - Họ cứ đú nhau dựng tượng đài Dân nghèo Nước nhược họ mặc ai Tâm tư thua thiệt họ vin mãi <*> "Gương sáng Sào Khê" họ kéo dài. <**>------ <*>: Chủ tịch tỉnh Sơn La Cầm Ngọc Minh phát biểu trước Quốc Hội: "Chưa có tượng đài là thiệt thòi cho chúng tôị" <**>: Dự án nạo vét sông Sào Khê (Ninh Bình) đội vốn gấp 26 lần. Hà Nội, 18:50 ngày 23-06-2021 ÐỢI... Bến đông người không em đứng đợi Lủi thủi tôi hóng lọn gió trời Cứ nấn ná ừ em sắp tới Bờ sậm màu lấm đẫm sương rơi. Hà Nội, chiều 09 tháng 06-2021 CHIỀU HỒ TÂY Ai phả vào chiều một dấu yêu Ðể ai tẩn ngẩn một nét Kiều Ồ kìa loáng thoáng ven rặng liễu Một tiếng cười reo lảnh lót chiều! Hồ Tây, chiều 30-04-2021 THÁNG BA VỀ... - với V yêu - Ừ tháng Ba về! Ừ, tháng Ba... Hoa xoan tim tím rụng hiên nhà Lạnh chiều cong cớn cơn gió lạ Mưa bụi giăng dầy, ta nhớ ta. *. Làng Tám, chiều 01.03.2021 ÐÊM XUÂN Một đêm. Một đêm. Lại một đêm Mưa xuân rỉ rắc rớt đẫm thềm Nỉ non tiếng dế hòa nhịp đệm Khua lạnh gió dồn buốt cóng đêm! Hà Nội, 22G45 ngày 20-02-2021 CHỢ XUÂN - tặng V - Náo nức chợ xuân. Náo nức em Chợ xuân ngày Tết lắm kẻ xem Tíu tít em cười. Em thật lém! Bứng cả trời Xuân tới chợ Chèm. Chợ Chèm, 20 tháng 02-2021 THU MỚI - tặng NTT - Em đi gom lại mùa thu cũ Trả lại vườn xưa tiếng Cu gù Sớm nay nắng ấm về trú ngụ Lảnh lót trong vườn hương sắc Thu. Hà Nội, 10G25 ngày 20-02-2021 LỠ XUÂN - với NTT - Lại tiếng em cười rộn nắng xuân Lại ngẩn ngơ xuân mấy mươi tuần... Ờ, ngày năm ấy, xuân chớm nhuận Ta nỡ vụng về để lỡ xuân. Hà Nội, 19 tháng 02-2021 HÀ NỘI MÀ ?TOANG?... (Lời ông Chủ tịch Hà Nội Chu Ngọc Anh: Hà Nội mà "toang" (virus Vũ Hán), tôi sẽ chịu trách nhiệm!) "Toang mẹ nó rồi" chả thấy "ai" Bỏng mép nhờn môi nhại vai hài Có phải cúm Tàu se miệng lại Mặt giấu vào trong nhẩm tấu hài. Hà Nội, 18 tháng 02-2021 CHƠI CỜ Thập thò nước rút xe dồn mã Cờ tàn mã tốt đập xe qua Lật kèo phút chót chơi thế lạ Người xem buông nhẹ một tiếng khà. Hà Nội, 11:30 ngày 30-01-2021 CHÀO XUÂN TÂN SỬU Chuột lủi Trâu vào rước Tân Xuân Gió Ðông náo nức hội nhân quần Tiếng Gà báo sáng bung sắc nhuận Mai vàng đằm thắm đắm tiết Xuân. Hà Nội, 23 tháng 01-2021 HỎI Sao cứ tìm ta trong giấc ngủ Ðể ngày lãng đãng giọt mưa Thu Ðã bảo tim ta đừng trú ngụ Mà còn gài bẫy tiếng cu gù. 3G45, 29 tháng 12-2020 KHÔNG ÐỀ 1 - với NTT - Rỏn rẻn em cười với gió mây Thẩn thơ nỗi nhớ chợt ùa đầy Nụ hôn em trộm từ đêm ấy Tấp tểnh men nồng như mới đây. . Hà Nội, trưa 21-11-2020 CHUYỆN ?KHÓC CƯỜỈ 39 mạng (*) trốn nghèo lâm nạn Bám chuyên cơ 9 (**) vị du Hàn Dân xứ Nghệ như thời chiến loạn Rợn đất trời rặt tiếng khóc than. .............. (*): 39 người Việt Nam thiệt mạng trong container đông lạnh ở Anh ngày 24 tháng 10.2019 (*): 9 người Việt Nam "đi nhờ" chuyên cơ của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Thị Kim Ngân trốn ở lại Hàn Quốc Hà Nội, ngày 01 tháng 11.2019 HOA ÐÊM Áo trễ vai trần rảo bước nhanh Nhũ hồng e ấp áo mỏng manh Gió khuya cong cớn từng cơn lạnh Nhợt nhạt môi hường lúc tàn canh. Giáp Bát, đêm 04 .10.2018

Ðặng Xuân Xuyến
Mục Lục


8. Giao Khúc Giữa Ðời Tôi chợt thấy!-Tôi như từng chiếc lá Lững lờ bay theo gió cuốn buông lơi Giữa hư không lạc lối dưới mây trời Về gốc cội nghe đời tôi mục rã Tôi chợt thấy!-Tôi như là sỏi đá Mãi đợi chờ ai đó một lần qua Khắc ghi sâu từng dấu bóng chim sa Rồi nhung nhớ sầu thương mòn mỏi đợi Tôi chợt thấy!-Tôi như nghìn đêm tối Ðêm hững hờ vằng vặc bóng trăng soi Ðếm thời gian, nhịp bước áng mây trôi Hình dung dáng người đi trong ảo mộng Tôi chợt thấy!-Tôi như cơn biển động Sóng cuộn tròn ôm ấp mối lương duyên Dẫu nghìn năm đầu sóng bạc không phiền Ve vuốt mãi dấu mòn in trên cát Tôi chợt thấy!-Tôi như mùa nắng nhạt Nắng phai mờ rong ruổi giữa hoang sơ Nhớ hương xưa ray rức thuở vào mơ Mùa nắng hạ hong đời thân lữ thứ Tôi chợt thấy!-Tôi như loài dã thú Mãi yêu người, người nỡ tránh xa tôi Cho yêu thương vào ước vọng mù khơi Chìm đắm giữa dòng đời tôi trôi nổi Viễn Phương Dư Âm Ngày Tháng Hạ Mùa hè đến sân trường rộn rã Phượng đỏ màu nắng hạ vàng hong Ve sầu vang tiếng kêu trông Tạ từ ba tháng nghe lòng nhớ mong Hạ đi, đến, chất chồng tuổi dại Kỹ niệm rồi bỏ lại sau lưng Bao mùa hạ mãi nhớ nhung Bạn bè một thuở cùng chung mái trường Rồi hạ cuối tình vương lưu luyến Nhìn bạn hiền xao xuyến tâm tư Lắng nghe từng tiếng giã từ Cõi hồn man mác, lòng như tơ vò Dòng lệ ứa đôi bờ mắt biếc Tay trong tay nuối tiếc ngày qua Giọt sầu từng giọt tuôn sa Cho dòng lưu bút thấm nhòa mực xanh Thầy cô đó tình thân muôn thuở Bạn bè đây đâu nỡ chia xa Mái trường năm tháng che ta Một thời thơ dại bước qua cuộc đời Từ độ ấy !-Trao lời tiễn biệt Bước phong trần ai biết ra sao Dặm trường ước vọng bay cao Buồn tim ray rức thuở nào cho nguôi Người quê mẹ ngược xuôi vất vã Kẻ tha hương trăm ngả buồn thương Bao mùa hạ đến sầu vương Nhớ hàng phượng đỏ mái trường xanh rêu

Viễn Phương
Mục Lục


9. Lời Thơ Ðộc Vận Anh ở ngàn thiêng... Huế, hay Cà Mau? Ðêm hoang đồng vọng ta bước qua cầu Tơ vương thuở ấy niềm thương nỗi nhớ Nay tìm đâu. Ôi! chẳng biết gọi đâu? Lữ khách về đây mây ngàn trắng phau Bình minh rạng rỡ rọi xuống tinh cầu Em đã kiếm tìm anh nơi viễn xứ Ðền trả ân tình mình trót trao nhau. Da diết ùa về nhớ thương từ u Ðắm say thuở trước nặng sâu vì nhau Ðôi bóng phương trời mơ vòng tay nối Biển vắng chiều hoang soải cánh hải âu. Trăng úa sao mờ hiu hắt bờ dâu Tình muôn thuở ngàn sau đẫm hương cau Bốn phương ngút ngàn chiều buông niềm nhớ Vạn lý ngùi xa khuất lấp nẻo sầu. Em vẫn chờ đây nhưng anh nơi đâu? Ðôi ta cách biệt đã mấy ngàn dâu Những ngày vắng bóng không còn hoa nở Thắp nén hương nguyền cỏ úa lá nhàu * 21 tháng Ba/ buồn Tình Hoài Hương
Mục Lục


10. Dòm Lên Mây Trắng Tháng tư còn lạnh mưa nhiều Bâng khuâng sương sáng buồn chiều gió bay Xưa rồi tháng đó nào phai Biệt ly bến cũ mắt cay vẩn thường Tháng tư nghĩ tới mà thương Phất phơ dâu biển đâu dường giấc chiêm Người đi tiếng nấc khơi chìm Kẻ thân ở lại nỗi niềm thở than Tháng tư ?tẩu hỏả làm ngang Putin tiếp tục bằng san phố nhà Xác phơi lớp trộn trẻ già Dội bôm hảm hiếp thế mà chối khăng Ðộc tài đâu cũng một băng Chiếu ban lệnh xuống cọp rằng thực thi Cần chi lẽ phải làm gì? Ta đây lẽ phải là vì ta đây! Chán đời trời cũng chán lây! Sao ông để đứa như vầy sống lâủ! Tháng tư tựa cửa ngậm sầu Dòm lên mây trắng lời cầu trống không! Thôi về nhóm lữa chờ đông Hát bài ca lạnh bên dòng suối khô Lất lây như thể hải hồ Chênh vênh mờ tỏ nấm mồ ai đâỷ! Nam Thảo Mục Lục


11. Người Bạn Phi Ðoàn 219 ( Viết cho anh Cường và hương hồn anh Tùng) Hôm nay bỗng dưng tao lại nhớ mày, Một người bạn phi đoàn 219, Mày lái trực thăng đưa người biệt kích, Trong một chuyến bay mày đã không về. Trường Chu Văn An một thời học trò, Tao và mày rủ nhau vào quân ngũ, Cùng du học tu nghiệp trên đất Mỹ, Bao kỷ niệm thời trai trẻ chúng mình. Sống trong quân đội như một gia đình, Vui buồn cùng bạn bè nơi thụ huấn, Lackland Airport Base ngày mới đến San Antonio - Texas lạ thành quen. Tao và mày cùng là lính không quân, Du học xong ngành nghề hai đứa khác, Mày lái trực thăng tao về kỹ thuật, Nhưng cùng niềm tin lý tưởng như nhau. Mày nằm xuống ngã ba Việt Miên Lào, Mồ chôn mày là rừng sâu núi thẳm, Máy bay nổ tung không tìm thấy xác, Không có di ảnh trên quan tài buồn. Ðã bao nhiêu năm mưa nắng qua rừng, Bình minh lên và hoàng hôn xuống núi, Xác thân mày đã tan thành cát bụi, Ðã bay theo gió về những phương nào.? Có về chiến trường xưa mà nhớ nhau Những đồng đội phi đoàn 219, Khe Sanh, Kontum, Non Nước Ðà Nẵng, A Sao, A Lưới, Tân Cảnh, Daktỏ.. Mày vẫn còn đây tấm hình cũ mờ, Bên chiếc trực thăng một người lính trẻ, Mày mặc đồ bay nụ cười quen qúa, Tao với mày như chưa hề lià xa. Nguyễn Thị Thanh Dương. NHỮNG GIOT NƯỚC MẮT ?. Giọt nước mắt khóc khi vui, Giọt nước mắt lặng lẽ rơi khi buồn, Khóc khi vĩnh biệt người thân, Khóc khi cảm thấy hồn mình lẻ loi, Ai đi ngang dọc qua đời, Sao không ghé lại thành đôi cho tròn? Khóc khi đi giữa phố phường, Hạt buị cay mắt biết phương nào về,. Khóc vì những chuyện vu vơ, Chạnh lòng một buổi chiều mưa trên đường, Ta không là chim bị thương, Ta không bị ướt sao thèm chở che, Khóc khi ra ngắm vườn hoa, Không bị tình phụ sao ta ngại ngùng, Thương hoa xinh sẽ úa tàn Thương tình ai sẽ nhạt dần tháng năm, Khóc khi đứng trước dòng sông, Thương đôi bờ có kẻ mong người chờ, Bên này thương nhớ bên kia, Cầu nhân duyên ấy bao giờ gặp nhau? Giọt nước mắt chẳng vì đâu, Giọt nước mắt nói bao điều trong tim, Ðó là nước mắt của em, Từ khi vào chốn nhân gian cuộc đời.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
Mục Lục


12. Giữ Tâm Vui Dù Hoa Hồng Trắng Ðang Cài Má ơi. Năm nay mùa báo hiếu lễ Vu Lan Con đi lễ chùa lòng dạ ngổn ngang Không như mọi năm gần lễ rộn ràng Giặt áo tràng lam chưa khô vội ủi Cài bông hồng đỏ vừa mừng vừa tủi Con mừng vì còn Má ở thế gian Mừng vì thời gian trôi dẫu vội vàng Vẫn chưa cướp Má của con đi được Gần trăm tuổi con đau lòng biết trước Ðếm tuổi thọ từng ngày sợ lúc Má xa Quỳ trước Ðức Quan Âm lệ nhạt nhòa Cầu Ngài thương, ban Má con sức khỏe Nhành dương liễu, nước cam lồ lặng lẽ Tưới phước xuống trần Má được bình an Vậy mà chỉ mới mấy mùa thu sang Má của con về vui cực lạc quốc Nay lễ chùa nhang tàn theo tiếng nấc Miệng lâm râm hết biết khấn điều chi Trước Ðức Quan Âm chẳng nói được câu gì Nhịp tim co thắt song hành theo nước mắt Người người lạy con cứ quỳ cuối mặt Mất Má rồi tâm trí hóa ngu ngơ Tuổi bảy mươi mà chẳng khác tẻ thơ Mới biết mồ côi mẹ tuổi nào cũng khổ Biết Phật pháp mỗi người mang nghiệp số. Mãn căn phần ắc vĩnh viễn đi xa Nhưng mà sao đã sáu mươi ngày qua Nghĩ mất Má con vẫn còn hốt hoảng Ðôi lúc nhũ cố giữ lòng thanh thản Má đã yên lòng vui xếp hành trang Ðể Má không phải đau khổ vô vàng Chốn vĩnh hằng hồn Má an vui được Hiểu Phật pháp niềm đau con gắng vượt Giữ tâm vui dù hoa hồng trắng đang cài Ðể ngực Má và ngực con ấm mãi Má hãy vui hoài nơi chốn vĩnh hằng saỷ... 15-7-2016 Phạm Huỳnh
Mục Lục


13. Ðêm Trắng Nhớ Người (thuận nghịch độc) Nghiêng ngả bóng trăng nửa khuyết lem Khách nhân tình đợi mãi về đêm Thuyền neo bến vắng xa mờ bóng Nước động hồ sâu lặng cuối hiên Yên khẽ tiếng buồn trôi niệm ý Nhẹ êm hồn nhớ vọng bên thềm Huyền đen tóc sợi trôi bồng gió Xuyên ánh trăng sầu vương vấn thêm Nguyễn Chí Hiệp 24.4.2022 THƯƠNG XƯA (thuận nghịch độc) Hoa trắng phai rồi đủ tiếc thương Gợi buồn đêm mộng hóa tơ vương Pha đầy lệ mặn môi khô héo Nhạt đắng hồn đau nỗi đoạn trường Ta với em đành sao rẽ lối Bước và chân lạc mãi sau đường Ga chiều cảnh cũ nơi về đợi Xa vắng dáng ơi, nhớ nhớ thương Nguyễn Chí Hiệp 22.4.2022 NHỚ XƯA (thuận nghịch độc) Mây ngàn cảnh trước lối nào xưa Núi phủ xanh cây ngã gió lùa Ðây vẫn xứ quê đường dốc bước Ðó là sông nước bến đò đưa Thầy hay bạn thuở thời thơ trẻ Áo trắng quần xanh tuổi giỡn đùa Vây lại nắm tay vòng kết tụ Ðầy vơi nỗi nhớ mới như vừa Nguyễn Chí Hiệp 20.02.2022 VÀNG XƯA (thuận nghịch độc) Vàng xưa nét cũ cảnh chiều quê Bước chậm quanh chân đạp cỏ lề Chan nắng khẽ soi mờ sóng nước Phủ xanh chen cuộn ẩn gần đê Làng trên thấy bóng cây đưa đẩy Bến dưới đò neo dáng cận kề Hoang vắng dấu đây thời khắc nhớ Ngàn mây rũ trắng cảnh nhìn mê 20.02.2022 Nguyễn Chí Hiệp
Mục Lục


14. Tôi Quên Sắc Lá ? Tử Sinh Hôn Hoàng Em về đem lại mùa xuân Cho tôi luyến nhớ bâng khuâng ngập lòng Còn gì cho tôi chờ mong Cành phong lan chịu long đong một thời Nắng lên nỗi nhớ bời bời Hồn anh trên lá một đời tiếc thương Gió ơi hãy quyện mùi hương Ðem tôi về chốn người thương tôi chờ Cuộc đời không phải giấc mơ Nụ hồng đang sắc là ngờ ? hủy tan Tôi đi vào chốn truy hoang Ðể em phải đợi ? Mai vàng héo khô Tôi đi xây dựng « cơ đồ » Thời huyễn hoặc tự hư vô chính mình Thuyền em chờ mãi bình minh Tôi quên sắc lá ? tử sinh hôn hoàng Lê Miên Khương
Mục Lục


15. Chùm Thơ Viết Ở Bệnh Viện KIẾP SỐNG "CÕI TA BÀ" Thơ viết trong những ngày cấp cứu ở bệnh viện Một kiếp sống "cõi ta bà" dằng dặc Yêu thương nhiều, đau đớn cũng chồng cao Mỗi người một cảnh khác nhau Mang tham vọng danh lưu muôn đời, vạn kiếp Ðường kinh tế, tôi không sành nước Nghiệp văn chương có vẻ hợp mệnh thiên Trải hơn bảy kỷ liên miên Ðậu đến ngọn thi sơn cao chót vót Ngồi kiểm lại một đời rơi nước mắt Bao lỗi lầm? Cất tiếng khóc trong thơ Tất cả qua đi như một giấc mơ Xa xót lòng, đau trái tim nhân ái Cố tâm cứu vào giây phút cuối !... Mình nhẹ nhàng bay về chốn Tây Thiên Nhưng người thân đang ở lại dưới trần Ðời sống cũng bình yên, hạnh phúc Coi "cuộc ta bà" chỉ là dạo gót Rời cõi người, tôi sang cõi tiên sa Hồn thi nhân trong vĩnh cửu bao la Nơi trần thế đời đời còn nhớ mãi Nơi trần thế, miếu thờ thơm hương khói... 18.4.2022 VẦN THƠ CHA KHÓC THƯƠNG CON Con Phạm Ngọc Bảo ( 7.3.1992 - 22.7.2019 ) Con - Khúc ruột, linh hồn của người cha khốn khổ Ngọc Bảo ơi! Máu lệ ứa tim cha Con đi rồi, cha vất vưởng bóng ma Chả thiết sống dẫu nợ đời chưa hết. Nam mô a di đà phật! Con tôi đâu có chết? Hồn nó còn quanh quất đâu đây Chờ đợi tôi qui tụ mỗi ngày Cha, con lại về bên nhau sớm tối. Cái cõi vô thường, sống tạm mà khổ đau hết nỗi Ngẩng mặt nhìn nhân thế xiết bao thương Biết trên đời còn lắm nỗi xót xa hơn Nhưng lòng cha yêu con không gì so sánh nổi. Con ơi! Ngày tháng phôi pha Anh linh về đón cha già qui tiên Quỉ dưới đất, thánh trên thiên Cha con ta ở giữa miền nhân gian Vần thơ cha khóc thương con Ngàn năm sau mãi vẫn còn tiếng kêu... Tại Bệnh viện 16.4.2022 Phạm Ngọc Thái
Mục Lục


16. Lạc Vào Vô Vọng Tôi còn lạc giữa trần gian Nhìn chiều đang trút lá vàng quanh tôi Tôi còn lạc giữa đơn côi Nụ cười đã vắng trên môi bao giờ? Thì thôi phải tập thờ ơ Ðừng nhớ chi những giấc mơ không thành Ðừng để đời cứ loanh quanh Mộng vàng đã vỡ thì đành buông rơi. Vững vàn lên nhé tôi ơi! Mùa Thu đã đến bên đời từ lâu Tôi vào đời tháng mưa ngâu Những cơn mưa sũng ướt sầu mênh mang! Tôi còn lạc giữa trần gian Nợ đời còn nặng, vai mang rã rời Chờ chi vệt nắng chân trời! Trăm năm đã lạc mất lời thề xưả Hồn tôi lạc giữa cơn mưa Tình tôi lạc giữa tiễn đưa ngày nào Chỉ còn năm tháng hư hao Ðôi ta lạc giữa phương nào tìm nhau! Hồ Thụy Mỹ Hạnh
Mục Lục


17. Ðành Thôi! Phần Số Phải chi mình ở chung thành phố Dễ dàng thăm viếng gặp gỡ nhau Sống xa cách nên thường hay nhớ Em cuối dòng sông anh giang đầu Hồi nhỏ mình sống chung thành phố Lại cùng chung học một mái trường Tuổi học trò hồn nhiên trong trắng Bạn chung trường ai dám nói thương Lớn dần lên trong thời chinh chiến Áo trận giày saut đi đó đây Thường gần gủi với làn tên đạn Sống chết kề đâu biết ngày mai Chuyện học trò nhạt mờ khói lửa Về hậu phương ăn nhậu quên đời Tàn cuộc chiến buông gươm lầm lỗi Biệt xứ lưu đày rừng xa xôi Ðất người phải đi làm mới sống Quần quật suốt ngày không hở tay Tuổi về hưu sống đời vắng trống Vợ đi xa buồn nhớ thương hoài Sống một mình nhà im vắng lặng Nhớ tới em cảnh sống bây giờ Về Việt Nam anh không về được Nhớ thương đành gởi hết vào thơ Phải chi mình sống chung thành phố Ðâu cần nhắc lại chuyện ngày xưa Em đơn lẽ anh buồn cô độc Phần số đành lạnh lẽo gió mưa Thylanthảo 11-1-22 viết trong ngày giổ Nội * Buồn nhớ gọi phone về thăm chị Ðể nghe chị kể chuyện cửa nhà Một mình chị sống ngôi nhà cũ 4 anh chị lớn đều đi xa Sống trong ngôi nhà nầy lâu nhất Chỉ 2 người Chị Sáu Chị Hai Chị bây giờ đã gần tám chục Cảnh cũ người xưa đâu còn ai Hôm nay mồng 7 giổ Ông Nội Ngày xưa đông đủ cháu con về Bây giờ cúng kiến còn mình chị Nhang đèn bánh trái chút tình quê Ông Nội mất em học đệ thất Ngồi giá triệu tiễn Ông lên đường Hình ảnh xưa còn nguyên khó mất Tiếc đời phải sống xa quê hương Chị kể những ngày gần giáp tết Sức không còn dọn dẹp cửa nhà May còn có học trò đến phụ Chưn dọn, nấu ăn, biếu tặng quà Thằng Út bên nầy cũng buồn lắm Một thân hiu quạnh tuổi đã già Tự làm tất cả bao công việc Nhớ thương Ba Mẹ với Ông Bà Sống bây giờ đếm ngày đếm tháng Còn khỏe một ngày mừng một ngày Tình thâm bây giờ còn có chị Thôi thì cứ biết chuyện hôm nay Ông có về ? Hôm nay chị cúng Chắc lòng Ông cũng chẳng mấy vui Nhà chỉ còn một đứa cháu gái Yên nhà yên cửa chẳng tiếng cười !! Thylanthảo 8-2-22 mấy dòng vĩnh biệt * Mây sắc đen và gió chuyển đưa Về đâu? Ðã hiểu hết ý chưa Hình như tình gió hơi do dự Có lẽ trời như sắp đổ mưa Lặng lẽ mây mang theo những gì Những lời khóc biệt tiễn người đi Sắc mây không đậm mà xam xám Rất hợp cảnh tình phút biệt ly Rời rã chân buồn mắt ướt hoen Lặng lẽ im không một lời than Chuyện buồn cứ mãi theo nhau đến Giá lạnh tâm đông tuổi muộn màng Buổi trưa trời có nhiều mây lắm Và nắng hình như cũng biếng lười Chầm chậm người ta khiêng thi thể Bước ra khỏi cửảVĩnh biệt đời! Xe hú còi từ từ lăn bánh Ðôi mắt ướt sương đứng lặng buồn Khe khẻ nghiêng đầu nhìn khuất bóng Nặng lòng thương tiếc rối lòng vương? Mây gió đổi dời đời tạm bợ Mới vừa thấy đó mất rồi sao? Một lời cầu nguyện em thanh thản Cõi vĩnh hằng xa đẹp nhiệm mầủ 25-2-22 Thylanthảo
Mục Lục


18. Giày Saults Giày saults cởi bỏ nằm lăn lóc Chất cao thành núi, khóc bên đường Mong chờ cậu chủ tiếc thương Quay về tiếp tục dặm trường hành quân Ngày xưa cậu quây quần chùi bóng Vội mang vào lội, phóng qua sông Băng rừng trèo núi xung phong Kề vai chiến hữu một lòng dọc ngang Ðời trai trẻ chẳng màng tên tuổi Chí tang bồng giong ruổi đó đây Giày sault chung thủy chân mây Nắng mưa dầm dãi đêm ngày vẫn vui Giày saults chớ ngậm ngùi buồn tủi Tại dòng đời hất hủi chúng ta Tim tan nát, lệ nhạt nhòa Kiếp sau xin hẹn xông pha chiến trường Bạch Liên
Mục Lục


19. Tháng Tư Của Người Vuợt Biển ( Ðể nhớ những chuyến tàu ra khơi vì tự do) Ai đã từng qua một lần vượt biển Sau Tháng Tư, Một Chín Bảy Mươi Lăm Tìm tự do nơi miền đất xa xăm Trên những con thuyền với bao ước mộng? Biển ban ngày dịu màu xanh hy vọng Lòng kẻ xa nhà gợn sóng hoang mang Bỏ lại quê hương, bỏ lại người thân Và mẹ già đang từng ngày trông ngóng Biển ban đêm, là màu đen hoang vắng Bóng tối chập chờn nỗi sợ mênh mông Thuyền bơ vơ trôi đi giữa biển đông Mong trời sáng thấy bình minh ló dạng Có khi biển chợt nổi cơn điên loạn Sóng bạo tàn, gào thét khắp trùng khơi Thuyền lênh đênh như chiếc lá chơi vơi Biển bao la nào thấy đâu bờ bến Cũng có khi biển lạnh lùng tàn nhẫn Ðồng loã cùng bọn hải tặc hung hăng Gieo kinh hoàng và những tiếng khóc than Trong giây phút, thuyền chao nghiêng rạn vỡ Nhưng biển cũng mở lòng ra che chở Những xác thân vừa nằm xuống đại dương Mộng tự do mang theo cõi vô thường Xin yên nghỉ nơi đây nghe sóng vỗ Biển cũng đưa những con thuyền bé nhỏ Vào đất liền trong bao nỗi mừng vui Ðói khát, sợ lo, hiểm nguy qua rồi Nơi đất lạ, thắp lên niềm tin mới Cám ơn Bidong, Galang, White Head Panat, Sikiew, Palawan, Songklả Bỗng thân thương để ta gọi là ?nhà? Chốn tạm dung vẫn thấy lòng ấm áp Cám ơn Cao Uỷ, cám ơn Red Cross Cùng những đoàn thiện nguyện khắp năm châu Vẫn còn đây trong cuộc sống nhiệm màu Người với người trao nhau tình đồng loại Ta nếm trải buồn vui đời tỵ nạn Vẫn đau lòng nhớ chuyến hải hành qua Biển hiện về, cay đắng lẫn thiết tha Trong khuya vắng giữa những cơn mộng mị Bốn mươi bảy năm! Biển mãi là kỷ niệm Của những thuyền nhân vượt biển khi xưa Thời gian qua, cũng chẳng thể xoá nhoà Ký ức biển? Một thời ta đã có Kim Loan
Mục Lục


20. Lục Bát Tháng Năm Tháng năm phượng nở chào mùa Ve râm ran gọi đuổi xua xuân tàn Mắt tình chở cả mùa sang Lao xao hồn liễu, võ vàng bút nghiêng Vật vờ lưu bút buồn tênh Trăm ngàn con chữ gập ghềnh nổi trôi Nhớ gì một thuở mềm môi Ngậm lòng mắt biếc chợt rời bảng xanh Giấu trong sách vở tình ai Ðể chừ hè đến nặng vai gánh tình Kẻ đi người ở sao đành Dụi con mắt ướt, ngắt cành phượng yêu Hái gì ? hái ngọn hắt hiu Ủ vào hồn mộng những chiều đợi mong Lặng nghe những bước phiêu bồng Ði vào cuối nẻo mênh mông phù trầm Tháng năm phượng nở đầy sân Bài ca giã biệt vàng hanh đất trời Phượng rơỉphượng mãỉ rơi rơỉ Thời gian gặm nhấm một đời buồn tôi Tuyền Linh
Mục Lục


II . Văn___________________________________________________________

1. Cô Giáo Thời `1975 ...


Nguyễn Thị Thanh Dương


Kim đạp xe từ nhà đến Ngã Năm chưa đầy 10 phút nhưng để tìm ra căn nhà của đứa học trò chắc không nhanh chóng dễ dàng gì. Con đường phía sau Tổng Y Viện Cộng Hòa dẫn vào một xóm nhỏ không tên, nhà cửa hai bên đường tha hồ xập xệ nhô ra thụt vào đủ kiểu, nhà có ghi số đàng hoàng, nhà thì ghi số nhếch nhác cẩu thả khó đọc khó tìm làm như đây là cõi tạm hoặc là cái địa chỉ không bao giờ cần dùng đến.

Kim còn đang ngơ ngác dò tìm số nhà có tới mấy cái ?sẹc? 112/4/95/3 thì bỗng đâu có một tiếng kêu lên :

- Cô Kim, cô đi tìm nhà thằng Huy hả?

Một đứa học trò ở xóm này đã nhận ra Kim, nó hí hửng :

- Ðể em đưa cô tới nhà nó nghe, ở tận cuối xóm gần nghĩa địa cô ơi

Kim vui mừng:

- Ủa, em Thế, may qúa, cám ơn em đã gặp cô đúng lúc

Kim theo đứa học trò đến nhà thằng Huy, nếu không có nó thì Kim đâu biết có những con hẻm quanh co tùm lum người và rác rưới dẫn đến bãi tha ma này.

Thằng Huy có nhà, nó bối rối mời cô giáo vào trong và gọi mẹ nó đang ở sau nhà. Qua những khe hở hớ hênh của tấm liếp che Kim ngó ra sau thấy mẹ con Huy đang vội vàng bóc giấy mấy gói đậu phộng rang đổ ra một cái đĩa nhỏ làm qùa mời khách.

Nói chuyện với mẹ Huy, Kim càng hiểu thêm cảnh nghèo khó của gia đình Huy, sau 1975 cha Huy đi ?học tập cải tạỏ, người vợ trẻ mang 3 đứa con đi kinh tế mới ở Lộc Ninh theo lời kêu gọi của địa phương với hi vọng chồng sẽ sớm được trở về, nhưng người chồng đã chết vì ốm đau đói khát trong tù. Không chịu được cuộc sống cực nhọc thiếu thốn cả đồ ăn thức uống đến điều kiện vệ sinh y tế nơi vùng đất hoang nước lạ lâu thêm nữa mẹ Huy mang ba đứa con thơ trở về thành phố, nhà cửa đã bán tống bán tháo ngày đi kinh tế mới nay không có chỗ nương thân họ về xóm nghèo này dựng lên một căn nhà tạm bợ để có chỗ trú ngụ nắng mưa. Cả bốn mẹ con hàng ngày đều phải ra đường kiếm sống, anh em Huy bán báo, bán đậu phộng rang, người mẹ thì bán ve chai. Những ?nghề? của bốn mẹ con đã nói lên cảnh nghèo nàn cơ cực của họ..

Mấy hôm nay Huy nghỉ học, bạn cùng lớp nói mẹ Huy bị bệnh nên Kim đến để thăm hỏi và động viên học trò

Kim từ gĩa mẹ con Huy và theo chân trò Thế để ra ngoài đường lớn, đã vào được căn nhà cuối nẻo đường nhưng vẫn có thể lạc lối ra đối với những người mới đến đây lần đầu như Kim. Thằng Thế nhiều chuyện líu lo:

- Cô hên đó, bữa nay chắc anh em nó bán đậu phộng rang còn ế nên má nó mở mấy gói ra mời, không thì họ chẳng có gì mời cô giáo..

Kim vừa buồn cười vì lời nói ngây thơ của trò Thế vừa cảm thấy chạnh lòng gia cảnh trò Huy, ra tới đầu ngõ nàng tạm biệt đứa học trò và đạp xe về nhà mà lòng vẫn buồn rưng rưng.

Kim vừa tốt nghiệp Trung học sư phạm và đi dạy năm 1985.

Kim tốt nghiệp thủ khoa, được ưu tiên lựa chọn vài trường điểm của thành phố, trong đó nổi bật nhất hấp dẫn nhất là trường tiểu học Hoà Bình bên hông nhà thơ Ðức Bà, khu vực trung tâm Sài Gòn, các bạn cùng lớp đều hào hứng khuyên Kim chọn trường này toàn con nhà giàu hoặc con nhà cách mạng chức vụ cao, cô giáo sẽ tha hồ nhận qùa từ những phụ huynh học sinh giàu có và địa vị.

Nhưng Kim làm bạn bè sững sờ khi nàng nhận dạy tại một trường nhỏ bé trong xóm nghèo vùng Ngã Năm Gò Vấp. Kim so sánh giữa những đứa học trò giàu và nghèo thì đứa nghèo đáng thương hơn thế là nàng chọn trường Kim Ðồng. Gia đình Kim cũng vui mừng vì Kim chọn trường gần nhà hàng ngày đạp xe đi dạy thoải mái chứ đạp xe vào thành phố nhốn nháo xe cộ đủ loại, xe chạy đủ kiểu đến nỗi mỗi đường phố đều treo những câu bảng hiệu nhắc nhở như :? Không phóng nhanh giành đường vượt ẩủ hay ? Thà chậm vài giây còn hơn gây tai nạn? hay ? An toàn là bạn. Tai nạn là thù?.. v..v?làm gia đình Kim lo lắm cứ y như nàng còn ngây thơ bé bỏng không ?đương đầủ nổi với đường phố và đường đời.

Cô giáo 19 tuổi mới lớn lên chẳng nghĩ đến chuyện hơn thua, lòng nàng chỉ phơi phới những lý tưởng đẹp cho đời.

Kim dạy lớp năm, lớp có hơn 30 đứa học trò, hầu hết là con nhà nghèo cư ngụ quanh vùng. Ngày đầu tiên Kim lên bục giảng bao nhiêu ánh mắt trẻ thơ hướng về Kim đầy vẻ thân ái và ngưỡng mộ dù hôm ấy Kim mâc aó sơ mi trắng với quần tây đen chẳng có gì lộng lẫy.

Kim mỉm cười ?khoẻ cái răng khểnh và giới thiệu với cả lớp:

- Cô tên Kim là cô giáo mới ra trường, các em là lớp đầu tiên trong cuộc đời của cô đó, các em học hành chăm chỉ và nghe lời cô nhé? .

Những đứa học trò nhao nhao lên và bắt chước nhau:

- Cô ơi, em hứa sẽ nghe lời cổ

- Cô ơi em hứa sẽ học chăm chỉ

- Cô ơi, cô đẹp qúa trời luôn.

- Cô ơi, em thích cô quá trời luôn

Học trò cả lớp sàn sàn bằng tuổi nhau, cao thấp như nhau chỉ có Huy là đứa ?gìả nhất 15 tuổi, vì sau khi gia đình thất bại kinh tế mới về thành phố mấy năm sau anh em Huy mới đi học lại.

Huy tên là Nguyễn Thiện Huy, cái tên đẹp, vóc dáng và gương mặt dễ thương sáng sủa của nó đã nói lên một thời được sống trong mái gia đình an vui đầy đủ. Huy ngoan ngoãn, chăm chỉ và học giỏi..

Ðể giúp đỡ đứa học trò giỏi con nhà nghèo Kim đã bảo Huy khi nào bán đậu phộng rang còn ế thì mang đến trường Kim và các thày cô giáo khác sẽ mua giúp, thường thì Kim mua bao trọn gói. Thế là thằng bé yên chí có nơi tiêu thụ dứt điểm món đâu phộng rang nhà nó.

Thằng Huy lớn nhất lớp nên đã giúp Kim được nhiều việc như giữ gìn trật tự lớp hay năng nổ mỗi khi trường lớp có tổ chức liên hoan, văn nghệ..v..v..

Hôm lớp Kim tổ chức liên hoan mừng lớp đoạt danh hiệu lớp giỏi . Ở nhà Kim nấu nồi chè và rang đậu phộng mang đến trường. Nồi chè hơỉbị khét và đậu phộng rang ?hơi bị cháy. Nhưng thằng Huy biết điều lắm, nó ăn chè ăn đậu phộng rang của cô giáo và ?khen cho cả lớp cùng nghe:

- Tuy chè và đậu phộng rang của cô có mùi ?khét mà thành đặc biệt và ngon lắm.

Ðám trẻ ngây thơ cùng gật gù khen ngon, ăn một lúc nồi chè và mớ đậu phộng hết bay. Có lẽ không phải vì cả nể cô giáo mà vì thời buổi vật chất thiếu thốn nên lũ học trò con nhà nghèo này chẳng chê món gì.

Ôi, Kim là cô giáo giỏi nhưng nấu ăn thì đâu có giỏi vì quen được cha mẹ và anh chị nuông chiều, nàng có vào bếp nấu nướng bao giờ.

Huy phụ cô dọn dẹp, khi không có trò khác đứng gần thằng Huy đã ra vẻ kinh nghiệm ?dạỷ lại cô giáo nó:

- Nè cô, lần sau cô rang đậu phộng xong là đổ ra rổ ngay nha, ai biểu cô để nướng trên chảo, chảo còn nóng làm đậu phộng cháy là vậy đó.

Kim chưa biết đáp sao thì được học trò ?dạỷ tiếp:

- Còn nồi chè đậu xanh nữa, ai biểu cô không quậy đều, nấu hoài nó khét là vậy đó.

Kim cười trừ:

- Ừ, tại cổquên. Không ngờ trò Huy giỏi toán lại giỏi cả bếp núc nữa ta.

- Thì ngày nào em cũng rang đậu phộng bán mà, rang khét như cô thì mẹ em hết vốn từ khuya rồi. Trước kia mẹ em bán chè em cũng biết nấu chè luôn, sau vì chè ế qúa nên mẹ em mới chuyển sang mua bán ve chai, thứ này ế hay khi mẹ em bệnh thì hàng còn nằm đó chẳng hư hỏng gì.

Huy thua cô giáo Kim 4 tuổi mà ra vẻ chững chạc ngang hàng lắm. Một buổi chiều thứ bảy thằng Huy và thằng Thế đi bộ đến nhà Kim để mời cô giáo đi xem phim ở rạp Lạc Xuân Gò Vấp. Cô giáo mặc nguyện bộ đồ bộ tung tăng theo hai đứa học trò như ba chị em vừa đi bộ vừa nói đủ thứ chuyện từ nhà đến rạp hát Lạc Xuân để xem phim.. Dĩ nhiên Kim đòi mua vé đâu nỡ để hai đứa học trò nghèo phải bỏ tiền ra bao mình, nhưng thằng Huy đã bảo Thế dùng ?vũ lực? níu tay cô giáo lại để nó ra mua vé kể cả mua vài thứ ăn vặt như xoài ngâm, ổi ngâm ( nó không mua món đậu phộng rang vì ngán món này qúa chừng, mà Kim cũng ngán luôn vì thường xuyên ăn đậu phộng ế của nhà nó).

Thế là cô giáo được hai đứa học trò nhỏ chăm sóc lịch sự. Hai thằng nhóc đã ra dáng nam nhi biết ?ga lăng? với phụ nữ

Chưa có thày trò nào thân tình với nhau đến thế

Một tuần sau là ngày nhà giáo 20 tháng 11, Kim đến lớp thấy nhiều em mang theo những món quà.

Ðầu tiên là con Hương mang một xấp vải lên tặng cô, Hương là con một cán bộ ở quận, có vẻ như nó hiểu địa vị của cha nó và món qùa giá trị nên nét mặt nó vui sướng hãnh diện lắm.

Thằng Tùng thì vụng về bưng lên một cái rổ cũ có chục trứng gà lót trong mớ rơm khô và nói:

- Cô ơi, gà nhà em đẻ trứng, em nói má để dành đem tặng cổ

Kim đã biết gia cảnh Tùng nghèo, chắc mẹ nó phải để dành từng qủa trứng cho đủ chục để Tùng làm qùa tặng nhân ngày nhà giáo. Kim cảm động và thương thằng Tùng qúa:

- Cô cám ơn mẹ em và em Tùng nhé, nhưng em mang trứng về nhà để ăn đi, cô hiểu tấm lòng của em rồi.

Kim nói vừa dứt lời thì thằng Tùng bỗng oà khóc như cha chết làm Kim hoảng sợ bối rối:

- Sao em khóc? Sao em khóc hả Tùng?

Thằng bé nức nở:

- Cô chê trứng gà nhà em, để em về nói má mua quà khác tặng cô.

Trời ơi, thì ra thằng Tùng hiểu lầm và ?quể với các bạn vì tưởng cô giáo chê món quà nhà nghèo cuả nó. Kim vội vàng lấy khăn tay âu yếm chùi nước mắt cho Tùng và dỗ dành:

- Cô thích ăn trứng gà lắm nhưng cô muốn để dành món ngon này cho Tùng ăn chứ cô không chê.. Em nín đi, cô sẽ nhận cả rổ trứng của em .

Thằng bé mỉm cười dù những giọt nước mắt còn long lanh trong đôi mắt ngây thơ cuả nó.

Một món quà khác làm Kim giật mình bất ngờ khi con Hạnh mang rả cái giò heo to tướng. Nó tự giới thiệu:

- Má em bán thịt heo hợp tác xã, má chọn cái giò heo ngon nói em mang tặng cô giáo ngày 20 tháng 11. Má nói khỏi cần tặng hoa, hoa tươi không bằng giò heo tươi. Hoa đẹp nhưng không ăn được, không xài được bền lâu còn mất công cô đổ rác.

Kim đã từng nghe các đồng nghiệp kể mỗi năm ngày nhà giáo nhận hoa đến ?mỏi cả tay và không biết cắm hoa vào đâu cho hết, khi hoa héo tàn thành đống rác lại phải thanh toán cho sạch nhà. Ngày nhà giáo đi ngoài đường thấy ai ôm một đống hoa là biết ngay họ là thày cô giáo, cái nghề không kiếm ra nhiều tiền để mà lãng mạn ngày thường mua hoa về chưng bày trong nhà nhưng ngày nhà giáo hoa chưng la liệt từ nhà trên cho tới nhà dưới, nhà bếp, nhà kho hay trên căn gác xép tối om om.

Kim nhận cái giò heo của đứa học trò có bà mẹ rất thực tế.và chắc chắn chiều nay nhà Kim sẽ có món giò heo ?cải thiện? bữa ăn trên mâm cơm mà không cần tốn công chen lấn giành giật nhau mua ở phản thịt hợp tác xã.

Nhiều trò khác thì tặng hoa, tặng hộp kẹo, gói bánh. Thấy thằng Huy có vẻ buồn buồn nó né không dám nhìn Kim, Kim ngạc nhiên đến bên nó:

- Kìa Huy hôm nay em làm sao thế?

- Mấy hôm nay mẹ em bệnh không đi ve chai nên không có tiền, em không có quà cũng chẳng có hoa tặng cô.

Kim mỉm cười :

- Em và Thế đã tặng cô một buổi xem phim rạp Lạc Xuân vui qúa trời rồi mà. Em đừng buồn nữa nhé.

Chiều hôm ấy Kim ra về, xe đạp của Kim chở đầy hoa, trứng, thịt và bánh kẹo.. Có hương hoa thơm cho đời thêm đẹp và có thực phẩm cho bụng thêm no. Cái gìo heo buộc sợi giây lạt treo tòn ten ở tay lái xe dù đã hơi ôi ả mà vẫn hấp dẫn làm sao, Kim đạp xe tới đâu cũng có người ngó theo, chẳng biết họ ngó cô giáo hay cái gìo heo hiếm qúy của thời buổi xã hội chủ nghĩa bao cấp này.

Học trò thương mến Kim ngày nào cũng gặp ở lớp đã đành, một ngày chủ nhật chúng còn rủ nhau đến nhà thăm cô

Ðược ngày chủ nhật Kim tha hồ ngủ muộn cho đến khi nghe ngoài cổng có tiếng í ới và nghe trong nhà có tiếng chị của Kim gõ cửa phòng:

- Kim ơi, dậy mà tiếp học trò, ai đời học trò đến thăm mà cô giáo còn lười biếng nằm ngủ nướng trên giường thế hả?

Kim vung chăn ngồi dậy:

- Chị ơi, chúng nó đâu rồi?

- Ðám đông đang ngồi ngoài sân cứ như biểu tình hay Chí Phèo ăn vạ hay chủ nợ đến canh nhà con nợ kia kìa, em ra mà xem?

Kim bật cười:

- Chị ví von ly kỳ thế. Khoan?khoan?chị đừng vội mở cửa nha, để đó cho em.

Kim nhanh chân chạy xuống nhà dưới ra sân đánh răng rửa mặt và ?len lén đi bằng lối cổng sau ra ngôi chợ nhỏ trong xóm mua về một mớ khoai lang, khoai mì luộc nóng hổi rồi nàng mới ra mở cổng.

Lũ học trò hơn chục đứa chắc đợi lâu mệt mỏi đứa thì đứng tựa vào tường đứa thì ngồi chồm hổm trước sân nhà. Thấy cô giáo chúng mừng vui quýnh quáng xúm lại bên Kim như vừa gặp lại cố nhân sau bao năm xa cách:

- Cô ơi chúng em đến thăm cô

- Cô có mạnh khỏe không?

- Cô ơi, sợ ngày chủ nhật cô đi chơi nên tụi em đến từ 7 giờ sáng để canh chừng cô.

Bây giờ là 9 giờ sáng, lũ học trò đã ngồi đợi suốt 2 tiếng đồng hồ. Kim cảm động lòng yêu thương của chúng dành cho mình và cảm động cả tính kiên nhẫn của chúng.

Kim mang mớ khoai lang khoai mì luộc vừa mua ở chợ về cùng ăn với lũ học trò, chưa bao giờ củ khoai lang khoai mì ăn điểm tâm lại ngon đến thế..

Thương mến cô giáo lũ học trò còn hãnh diện khen cô giáo của chúng đẹp nữa chứ.

Hôm Kim cho đề tài luận văn ?Em hãy tả cô giáo của em? có bài văn chúng tả cô giáo Kim của chúng nào mắt bồ câu, mũi dọc dừa, môi trái tim..v..v. và có đứa cả gan kết luận :? Tóm lại cô giáo Kim của em đẹp nhất trường, đẹp toàn bộ từ đầu tới tay chân giày dép, đẹp như cô Thẩm Thúy Hằng mà mẹ em có treo hình trong nhà?

Chắc là chúng nghe người ta nói xưa nay nên quen miệng bắt chước theo chứ chúng biết mắt bồ câu mũi dọc dừa là thế nào. Kim không đẹp đến thế, mắt Kim mí lót, mũi Kim, môi Kim bình thường thì.chưa bằng một góc cô minh tinh Thẩm Thúy Hằng.

Nhưng Kim biết mình cũng?dễ thương vì từ hồi học cấp hai cấp ba cho đến sư phạm đã có nhiều bạn nam sinh, bạn cùng xóm để ý thương thầm nhớ trộm. Người quen cảm mến đã đành mà người không quen cũng cảm mến. Thỉnh thoảng Kim hay lên phố chợ Hạnh Thông Tây ăn món hủ tiếu mì của tiệm Tàu, có lần Kim ăn xong ra trả tiền thì ông Tàu nói có anh kia trả tiền cho cô rồi, anh gởi lại một tờ giấy. Kim mở mẩu giấy ra với nét chữ cuả người xa lạ: ? Cô bé dễ thương ơi, anh trả tiền cho cô bé rồi, lần sau nếu gặp anh xin phép được trả tiền nữa nhé?.

Anh không ghi tên tuổi, không cần làm quen, chỉ lãng mạn thế thôi, nhưng Kim?từ bỏ luôn tiệm mì ông tàu và đổi sang ăn tiệm mì khác vì chỉ sợ có anh chàng nào đó lén nhìn nàng lúc đang xì xụp ăn tô mì thì mắc cỡ lắm..

Cô giáo Kim dạy học được 3 năm, cái nghề nàng chọn ngày từng ngày đã thêm gắn bó, nàng yêu nghề giáo dù đồng lương bé nhỏ chỉ đủ cho cô nàng độc thân như nàng tiêu xài vặt khi chuyện áo cơm đã có gia đình bảo bọc..

Bạch Diệp một bạn thân của Kim thi rớt đại học không thèm vào học trung cấp như nàng mà ở nhà phụ cha mẹ bán?cây tôn, cái nghề chẳng thích hợp cho cô thiếu nữ mới lớn chút nào nhưng là nghề hái ra tiền của nhà nó. Buổi giao thời sau khi miền Nam xụp đổ người ta gỡ mái đập tường nhà để đi kinh tế mới và không bao lâu sau người ta lại có nhu cầu xây dựng nhà, tiệm bán cây tôn phát triển thêm bán cả gạch cát, xi măng nên thời nào tiệm của nhà Bạch Diệp cũng hốt bạc dễ dàng.

Bạch Diệp luôn nhìn Kim với vẻ thương hại cô bạn nghèo, chọn nghề giáo nghèo chẳng trông mong gì mánh mung bổng lộc ngoài cái ngày nhà giáo 20 tháng 11 nhận hoa, nhận qùa vớ vẩn. .

Yêu nghề giáo Kim yêu lũ trẻ, học trò ba niên khóa đã rời trường, có bao nhiêu đứa học trò thân quen, có bao nhiêu kỷ niệm dưới mái trường nghèo đã ghi vào lòng nàng. Nhưng những đứa học trò lớp đầu tiên của đời cô giáo là Kim nhớ nhất.

Một hôm khi Kim đang rời trường để về nhà thì một anh bộ đội xuất hiện nơi cổng trường, Kim đang ngỡ ngàng chưa kịp nhận ra ai thì anh bộ đội lấy chiếc mũ cối trên đầu ra:

- Em Nguyễn Thiện Huy nè cô.

Huy đã là một chàng trai 18 tuổi, nó to lớn và rắn rỏi. nét mặt thoáng buồn Huy kể:

- Em lớn rồi, không có tiền cũng như không có thời gian để ăn học tiếp nữa. Em mới bị gọi đi bộ đội.

Kim nói như một lời than:

- Lý lịch con sĩ quan ?nguỵ? mà họ cũng gọi em đi bộ đội sao !!

- Dạ, bởi đi bộ đội là chuyện sống chết và gian khổ có ai tranh giành đâu cô nên em mới được gọi, mới được ?trúng tuyển? nghĩa vụ quân sự. Con cháu cán bộ hay con nhà giàu có tiền đút lót phường đội địa phương đềủrớt nghĩa vụ quân sự cả.

Kim ái ngại hỏi thăm:

- Gia đình em lúc này thế nào?

- Mẹ vẫn mua bán ve chai, các em vẫn bán hàng rong không có phép lạ nào thay đổi được. À, có em đi bộ đội nè?

Huy nói đùa mà cả Huy và cô giáo đều chẳng thấy vui. Huy buồn buồn tiếp:

- Ði bộ đội đời em không có tương lai. Em tới thăm cô và chúc cô luôn dạy tốt.

Kim cũng buồn buồn an ủi một câu vô nghĩa:

- Rồi em sẽ trở về mà..

- Khi người ta phải phục vụ cho một chế độ không yêu thích coi như cuộc đời không có tương lai. Gia đình em tan nát và nghèo khổ vì họ. Người cha chết trong tù, vợ con đi kinh tế mới, con cái không có cơ hội học hành đầy đủ thì biết lấy gì và biết đến bao giờ mới bù đắp được những mất mát nàỷ

Kim giật mình không ngờ những ý nghĩ của thằng Huy lại giống mình đến thế. Suốt ba năm đi dạy, yêu thương lũ học trò nhưng nàng đã dần dần cảm thấy cuộc đời không có tương lai khi phải sống trong một xã hội đầy rẫy những bất công dối trá và chính nàng cũng phải sống gỉa dối giảng dạy cho học trò những điều nàng không tin và không muốn..

Thằng Huy đã lớn thật rồi, đã trưởng thành từ những nỗi đau, tuổi mộng mơ 18 của nó đã thay thế bằng những mặc cảm tủi hờn . Kim nắm lấy bàn tay nó rưng rưng:

- Cô chúc em đi bình an và ?

- Và nhất định em sẽ trở về phải không cô? Em sẽ tìm gặp cô tại trường Kim Ðồng này. Chúc cô ở lại bình an

Một năm sau Kim đi vượt biên, nàng đến Thái Lan. Ở trại tị nạn những ngày dài tháng rộng chờ đợi đi định cư nước thứ ba thỉnh thoảng Kim cũng nghĩ tới thằng học trò đang là bộ đội, nàng nghe tin thằng Huy đóng quân bên Campuchia.

Không biết ngày Huy trở về có đến trường cũ tìm cô giáo của nó như lời hẹn không? Kim áy náy và ray rứt tưởng tượng có môt anh bộ đội trẻ thất chí trở về sau những năm chiến đấu vô nghĩa, anh ta đến trường Kim Ðồng và đứng chơ vơ ngoài cổng trường vì cô giáo của anh đã đi xa.

Huy ơi, hãy thông cảm cho cô, cô từ bỏ chế độ và xã hội của họ chứ cô đâu muốn từ bỏ quê hương trong đó có trường lớp và các em học trò nhỏ của cô.

Một hôm Kim đọc báo ?Ðường Sống?, một tờ báo hải ngoại, ngoài những bài viết chính từ hải ngoại còn có những đóng góp của thuyền nhân tị nạn. Báo được phân phối đến những trại tị nạn vừa để thông tin vừa giải trí.

Kim đọc bài viết của một người tị nạn ở Thái Lan, anh ta là bộ đội đã cùng một bạn bộ đội khác đào tẩu đi đường bộ từ Campuchia sang Thái Lan, nhưng chỉ một mình anh sống sót còn người bạn kia đã bị bắn chết trước khi sang biên giới Thái Lan.

Người bạn xấu số của anh tên Nguyễn Thiện Huỷ

Kim bật khóc nghẹn ngào, Nguyễn Thiện Huy này có phải là đứa học trò cũ của nàng không ?

Nguyễn Thiện Huy ơi, nếu là em thì lời hứa hẹn ngày cô và em tái ngộ chỉ là ảo vọng thôi..

Cô và em là thày trò cũng là hai người bạn cùng chung tư tưởng Chúng ta không gặp nhau ở trường xưa cũng không may mắn gặp nhau nơi bến bờ tự do này.

Nguyễn Thiện Huy ơi, nếu là em thì câu em nói hôm nào như một điềm báo trước ?Ði bộ đội đời em không có tương laỉ

Ở thế giới bên kia em hãy phù hộ cho mẹ và các em của em để mai này họ có một tương lai tốt đẹp hơn những gì trong qúa khứ.Huy nhé


Nguyễn Thị Thanh Dương

Mục Lục


2. Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhìn

Tình Hoài Hương



-------------------------------------
Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhịn
Phần Thứ Nhì
Chương 17/3
Từ Thành DIÊN KHÁNH đi NHA TRANG
Tình Hoài Hương
*
Trời xám xịt, ảm đạm với từng cuộn mây đen phủ chụp lấy Cây Cẩy, xe chạy càng chậm như rùa bò khi đến Thành Diên Khánh* là một quần thể lục giác, có lối kiến trúc quân sự độc đáo, quy mô theo phương pháp Vauban {do ông kỹ sư Công-binh quân sự nổi tiếng của Pháp: tên Vauban (1633-1707) tên thật của ông là Sébastien Le Prestre} Thành có hào sâu chắn bờ thành cao 3 mét rưỡi, bên trong thành đắp làm hai bậc cấp rộng và cao. Trong ca dao xa xưa Việt Nam đã có:
Khánh Hòa biển rộng non cao
Trầm hương Vạn Giã yến sào Nha Trang
Tỉnh Khánh Hòa đậm đà mưa nắng
Non chồng nghĩa nặng nước chứa tình thâm
Ngọn gió bay phảng phất hơi trầm
Mây xây tháp bút trăng dầm bến ngân (cd)

Thời xa rất xưa khoảng thế kỷ 17 đã thấy có tên ?cửa Nha Trang? do ông Ðỗ Bá biên soạn. Một bản đồ ở niên đại cuối thế kỷ 17 năm Giáp Ngọ, Niên Bình Nam Ðồ của Ðoan Quận công Bùi Thế Ðạt cũng thấy ghi tên "Nha Trang Hải môn". Trong thư tịch cổ Việt Nam có những tài liệu đề cập đến địa danh này. Thời Pháp thuộc Nha Trang chỉ là một ?chef lieủ, sau 7 tháng Năm 1937, toàn quyền đông dương nâng Nha Trang lên hàng ?communẻ, cho đến 27 tháng Giêng 1958 thì có nghị quyết số 18-BNV bãi bỏ chức ?Thị-xã?. Do vùng Nha Trang bao la mênh mông từ đất liền, hải đảo, đảo biển xa xôi chằng chịt, nên miền đất nầy được chia: Nha Trang Ðông & Nha Trang Tây, do Tổng-thống Ngô Ðình Diệm ấn ký.
Ven biển Nam Trung Bộ thuộc Tỉnh Khánh Hòa (thành phố Nha Trang) phía Bắc giáp Tỉnh Phú Yên, gần sát nách là Ninh Hoà. Nam giáp Tỉnh Ninh Thuận. Tây là sườn Ðông của dãy trường sơn giáp Ðắc Lắc & Lâm Ðồng. Ðông giáp biển Ðông. Biển Khánh Hòa trong đó bao gồm cả quần đảo Trường Sa nằm ở điểm cực Ðông Việt Nam. Tóm lại Nha Trang là một thành phố rất thuận tiện về mọi mặt, là vị trí địa lý tiện nghi trên đường thủy, đường hàng không & trục giao thông đường bộ qua quốc lộ quan trọng xuyên đi mọi miền đất nước Việt Nam khá thuận lợi.
Ðường đi đến cửa ngõ qua THÀNH tới NHA TRANG. Việc đầu tiên đập vô mắt du khách là pho tượng rất bệ vệ to lớn đồ sộ uy nghi: "Kim Thân Phật Tổ" ngự trên đỉnh Hòn Trại Thủy. Chùa Bửu Phong về hướng Nam. Trong hơn khoảng hai mươi ngôi chùa ở Nha Trang, thì có chùa Long Sơn kiến trúc độc đáo xây dựng 1940, chùa an ngự ở quốc lộ 1 dưới chân Hòn Trại Thủy trong nội thành Nha Trang, là đề huề to lớn nhứt. Ngoài ra Nha Trang có nhà thờ đá cũng là kỳ quan khác lạ xây trên cao tít từ năm 1928 với 10 hạng mục hấp dẫn, công trình xây dựng tuyệt mỹ, có ba cái chuông to, đồng hồ cổ lắp trên tháp xưa, nay còn nguyên vẹn.

Nha Trang xa Sài Gòn (441km, tính trên đường bộ & Nha Trang đi Cam Ranh xa 45km). Từ Cam Ranh đi tới Nha Trang về hướng Bắc tuyệt đẹp với miền cát trắng mịn đầy hấp dẫn... là một tiềm năng khá tốt mang tính chất nhiệt đới gió mùa, nên khí hậu Nha Trang ôn hoà trung bình 25/oC & đại dương thông thoáng, thênh thang, bao la, mênh mông, do mùa Ðông chỉ se lạnh. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 (thường là ba tháng). Mùa hè mát mẻ hơn các vùng khác.

Anh đứng ở Nha Trang
Trông sang xóm Bóng
Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn
Gần nhau chưa kịp nói năng
Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng!
Biển sâu con cá vẫy vùng
Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư
Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bẻ tư
Biển Nha Trang cạn nước, anh mới từ duyên em. (ca dao)

Thành phố Nha Trang duyên dáng thơ mộng nằm trên một đồng bằng khá rộng đã phân hoá, được bồi đắp phù sa bên cạnh sông Cái, sông Quán Tường, rồi nước chảy ra biển cả. Có hai con sông lớn là sông Cái & sông Dinh. Ðặc biệt Khánh Hoà có 5 suối nước nóng vẫn trữ cả triệu mét khối lượng nước uống, và để chữa bịnh:

Suối Tiên nước chảy lững lờ
Tiên đi đâu, để bàn cờ rêu phong
Nước mây vắng vẻ tăm mòng
Bền gan nay vẫn rày mong mai chờ (cd)

Ngoài ra Khánh Hòa có hệ thống xe lửa nối dài từ Phan Rang chạy xuyên qua các miền tới Bến Hải, xe lửa vô tới Sài Gòn. Khánh Hòa có nhiều hải cảng và phi cảng náo nhiệt, đông đúc, đồ sộ, thì đã có:
Ông Trần Ðường giữ đèo Dốc Thị
Ông Trịnh Phong trấn nơi biển Cù
Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu
Ba ông một bụng nghìn thu danh truyền (cd)

Phố biển thơ mộng của Tỉnh Khánh Hòa đã nở hoa đèn, thì có nhiều cặp tình dìu nhau lượn ven biển: Những SVSQ Hải-quân & chàng Hải Quân áo xanh áo trắng oai sang, hiên ngang sánh vai cùng thiếu nữ mặt hoa da phấn, họ âu yếm cười vui bước trên đường thênh thang. Hợp với SVSQ Không-quân & anh Không-Quân hào hùng, áo bay xám áo bay vàng cam với em kiều diễm thủng thỉnh dạo bước dập dìu thuở xuân tình, khiến thành phố biển càng nôn nao xao xuyến ngẩn ngơ, thi vị thay:

Bãi biển Nha Trang mịn màng trắng trẻo
Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
Ðêm đêm thơ thẩn một mình
Ðố sao cho khỏi vương tình nước mây. (cd)

Hoặc:

Em một sáng trường tan về trước ngõ
Chiều Ba Làng thuyền xa bến nhấp nhô
Mắt em buồn nhìn vọng hướng Hòn Khô
Có cô gái nghìn năm nằm xõa tóc
Anh tay trắng nhưng vòng tay ngà ngọc
Em diễm kiều nhưng mơ mộng bình thường
Ngày gặp nhau nghe thương quá là thương
Em gái sắc anh trai tài lưu luyến
Tay trong tay đưa em về trên biển ? (2)
Mưa bụi mù mù bay bay nhạt nhòa trong bóng tối mờ mờ, ngoài xa xa ngư thuyền tấp nập nhấp nhô trên sóng, những chùm đèn câu mực nhỏ li ti long lanh khi tỏ khi mờ. Thuyền lênh đênh trên mặt sóng không hiểu vừa vào bến đỗ, hay đang ra khơi nơi Hòn Tre như bức lũy thành ngăn gió đại dương, bãi cát phẳng lì, tơi mịn dưới làn nước mát rượi. Nào Ðồng Muối Hòn Khói, Hòn Hèo, Hòn Son, Hòn Bà, Hòn Yến. Hòn Tằm... Vân vân? Ôi sao có bao nhiêu là "Hòn? dễ thương... ấy nhỉ!?

Ðứng ở Hòn Chồng, trông sang Hòn Yến
Lên Tháp Bà, về viếng Sinh Trung
Giang Sơn cẩm tú chập chùng
Ðôi ta gắn bó thủy chung một lòng (cd)

Phố thị hải dương thơ mộng, nhiều đại lộ khang trang sạch sẽ dẫn qua Xóm Mới ở trong nội thành tới Xóm Bóng, Xóm Cồn. Nhà cửa, ghe thuyền tấp nập dưới ánh mặt trời, đa số cư dân là người Kinh, kế đến là dân tộc Hoa, Raglai, Gia Tiếng, Êđê, Tày, Chăm, họ sinh sống trên đất cát, cồn cát. Biển xanh thẳm màu ngọc bích lóng lánh, dạt dào sóng vỗ vào mỗi buổi hoàng hôn hay bình minh. Miền cát trắng thơ mộng với đá granite, ven biển đất mặn có phèn, đôi vùng có đất xám bạc màu. Nha Trang là nơi sản xuất dồi dào nhiều loại thủy hải sản, tôm giống. Trại nuôi trai trên biển lấy giống, lấy ngọc.

Tài nguyên biển rất phong phú cho ta nhiều hải sản quý: sản xuất cả vạn tấn muối, tôm giống, tôm thịt, cá đủ loại, sò, ốc, chim yến, v.v... Rừng Khánh Hòa có nhiều loại gỗ qúy hiếm: lim, hương, pơmu, trầm hương, kỳ nam... Khoáng sản: cát trắng, nước khoáng, than bùn, cao lanh, ilmenit, đá granite. Có những trang trại: sản xuất đường mía, bia, nước ngọt. Thủy tinh kính phẳng. Khu công nghiệp Agar, Alginate. Công xưởng đồ sộ đóng tàu, thuyền, ghe. Ngoài phong thổ, thì đây là nơi thắng cảnh hữu tình và du lịch đều cuốn hút du khách thập phương:

Khánh Hoà là cái xứ trầm hương
Non cao biển rộng người thương đi về
Yến sào mang nặng tình quê
Sông sâu đá tạc lời thề nước non (cd)

Hải Học Viện cách xa Nha Trang 6km (ngư nghiệp Ðông Dương năm 1922) là Viện Hải dương học chuyên nghiên cứu về biển & động vật trong biển. Ngoài các trường Tiểu-học, Trung-học... có trường Hải Quân (Nha Trang Naval Training Center) tọa lạc tại đường Duy Tân, nơi đào tạo Hạ Sĩ Quan, Sĩ-quan, thủy thủ Hải quân của Việt Nam Cộng hòa, mệnh danh là Trường Sĩ quan Hải-quân, hoặc Trung tâm huấn luyện Hải-quân Nha Trang gồm có:

1/ Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn?
2/ Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ?
3/ Trường Hạ Sĩ Quan Ðồng Ðế?
4/ Trung Tâm Huấn Luyện Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân -(đã có bài viết riêng về phần nầy ở truyện dài "Huấn Luyện Phi Hành"- cùng tác giả).
- TT Thủy thủ Hải quân, Sĩ quan Hải-quân.
- Trường Sĩ-quan Chỉ-huy và Cơ-khí.
- Trường Sơ-đẳng chuyên nghiệp.
- Trường Trung-đẳng chuyên nghiệp.
- Trường Tân binh Hải-quân.

Ngoại biên Nha Trang có các nơi huấn luyện như:
1/ Huấn Khu Hạ Sĩ-quan Ðồng Ðế ở dưới chân núi Hòn Ngang Ðồng Ðế tọa lạc tại Xã Vĩnh Hải, Quận Vĩnh Xương, Tỉnh Khánh Hòa. Phù hiệu trường HSQ Ðồng Ðế là thanh kiếm bạc với mặt trời trên biển bao la rất đẹp. Ban huấn luyện chuyên về Biệt Ðộng Quân đào tạo các Hạ-sĩ-quan, thời gian học ở Ðồng Ðế 6 tháng. Nhưng hồi trước trường cũng có tổ chức các khóa sĩ quan đặc biệt, ví dụ khoá của Ðại tá Hồ Ngọc Cẩn.
ạ- Sau nầy vì quân trường Thủ Ðức rất đông, nên có những khóa sinh viên sĩ quan phải học ở Ðồng Ðế. Nếu khóa học nào chứa đủ nhân số SVSQ ví dụ như khóa 6/70 học ở Thủ Ðức.
* Theo Facebook của anh Ngoc Buithe, thì: Ngoài việc huấn luyện tân binh Bộ Binh & Ðịa Phương Quân, TTHL Lam Sơn còn huấn luyện tân binh tình nguyện như: Không Quân, Hải Quân.

Năm 1969 Hải quân không gởi người đến Trung Tâm nữa, vì trước đó Trung Tâm bị Fulro tập kích, tân binh Hải Quân chết một số.
b.- Cũng có lúc các khóa học khác, vì SVSQ đông quá, nên quân trường (TTHL SVSQ Thủ Ðức) phải chia sinh viên sĩ quan ra làm hai nơi: ai là cư dân sinh sống ở miền Trung, thì học ở Ðồng Ðế ; Ai là cư dân sinh sống miền Tây, phụ cận Vũng Tàu, Sài Gòn v.v? thì học ở Thủ Ðức cho được gần nguyên quán.

Theo Facebook của anh Chí Võ thì trường HSQ Ðồng đế có đào tạo các khoá Sĩ Quan, nhưng không phải người ở vùng nào gần trường thì học ở đó, mà tùy theo người đó thuộc khóa nào, các khóa chẵn như: 2/68 , 4/68 , 2/72 , 4/72... là học ở Ðồng đế. Vậy mà có Trương Ánh Tùng cho hay: - Nếu tại trường khóa học nào chứa đủ nhân số SVSQ - thì học ở Thủ Ðức - nghĩa là Thủ Ðức mà trống chỗ, thì học Thủ Ðức - chớ không cần phải là bao nhiêu SVSQ. Thí dụ khóa 6/69 vì đông quá, nên chia làm 2 nơi - một nửa học Thủ Ðức, một nửa học Ðồng Ðế. Cũng có Khóa 1, 2, 3, 4, 5, 6/70 đều học Thủ Ðức - như khóa 1/71 học ở Thủ Ðức - Chỉ khi nào ở Thủ Ðức không còn chỗ chứa - thì lúc ấy mới đưa SVSQ ra Ðồng Ðế mà thôị} (3)
C.- SVSQ trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt trước khi ra trường, ai chọn Hải quân, hoặc Không quân, thì được trường gởi đi Nha Trang học về ngành chuyên môn. Sau khi học xong, họ trở về trường cũ tiếp tục học cho đến lúc mãn khóa.

***

Từ trại cùi Bàu Phong nhìn chéo xa xa thấy núi Hòn Khô. Ðồng Ðế ở Hòn Khô thuộc núi Cô Tiên, gió lùa lá vàng sương phủ đầy vai bức tượng đúc xi măng đúc hình dáng một người lính, đứng trong tư thế thao diễn nghỉ đã sạm màu với thời gian, tượng cao 25 mét có khẩu garand M1 sơn màu trắng do bộ chỉ huy trường Ðồng Ðế xây đầu năm 1960. Ngồi trên xe đò từ Ninh Hòa vô Nha Trang trên quốc lộ 1 nhiều người có thể ngó thấy bức tượng chiến sĩ nầy. Ðế tượng có ghi câu thơ:

Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh.
Hai câu thơ trên đã có từ lâu, chẳng thể nhớ tác giả là ai, mãi về sau nầy mới có các thi sĩ khác nối tiếp thêm... thành bài thơ dài thiệt hay, nơi đây tác giả chỉ ghi ít trích đoạn:

Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh?.
Người yêu ơi câu ước hẹn chưa thành
Mà chinh chiến ngăn đôi mình đôi ngã
Ðà Nẵng - Nha trang cách nhau xa quá
Em ở phố phường còn nhớ anh không
Ðây Nha Trang sóng vỗ cạnh Hòn Chồng
Trường Ðồng Ðế những chiều êm nắng đổ
Ðêm di hành nghe trùng dương sóng vỗ
Lẫn tiếng buồn vang từ rặng thùy dương ? (1)

Có thi sĩ khác viết:

? Ðường Ba Làng lâu nay đã tắt lịm
Vắng tiếng ca vang theo nhịp bước đều
?Tàn trong bóng chiềủ sao thấy quạnh hiu!
Chàng chiến sĩ phương nào anh có biết?
Ðường Bãi Tiên non cao nước biếc
Núi hòn Khô da diết nhớ mong anh
Em vẫn nằm xõa tóc ngắm biển xanh
Nghe sóng vỗ tưởng như lời anh nhắn
Chàng chiến sĩ năm xưa... anh tắm nắng
Gội sương sa Ðồng Ðế đậm màu da
Anh ở đâu để ngăn cách tình ta?
Em vẫn đợi, vẫn nằm đây xõa tóc (2)

2/ Huấn khu Dục Mỹ cách Nha Trang 43 km tọa lạc tại Xã Ninh Sim, Thị-trấn Dục Mỹ, Quận Ninh Hòa: TTHL Dục Mỹ ở gần quốc lộ 21, gần núi Ðeo.
ạ- Dục Mỹ có khóa huấn luyện "Rừng núi sình lầy" (thời gian học khoảng 42, 43 ngày).
b.- Dục Mỹ là nơi huấn luyện sĩ quan của các binh chủng (không chỉ dành riêng cho Biệt Ðộng Quân). Khóa học rất gian khổ. Những ai đã từng đến nơi nầy học, họ rất tự hào được cấp bằng tương đương với bằng Ðại-đội-trưởng.
c.- Huấn khu Dục Mỹ là nơi huấn luyện căn bản tân binh Biệt Ðộng quân. Pháo Binh và Lam Sơn:
d.- Các khóa chiến thuật hành quân biệt động như: Chiến thuật "hành quân viễn thám".
ẹ- Bổ túc chiến thuật hành quân đơn vị cấp Ðại-đội, Tiểu-đoàn.

3/ Trung tâm huấn luyện Lam Sơn: trên Quốc Lộ 26 đi TTHL/Lam Sơn, nơi ngã ba Ninh Hòa về Dục Mỹ, có một lô cốt bên trái, nhìn qua nơi góc quẹo về bên phải có ghi chữ "SÁT".
về hướng Tây, muốn đến trường nầy, phải đi ngang qua Dục Mỹ. Ðây là quân trường đào tạo binh sĩ cấp bậc thấp nhứt cho Bộ binh, Ðịa phương quân? thời gian học là 3 tháng.
Lam Sơn hắc ám, Lam Sơn buồn,
Ngày ăn cá chuồng, tối ngủ đường mương!

Tóm lại, không kể những trường Tiểu-học, Trung-học phổ thông..., trường chuyên nghiệp... ở Nha Trang có rất nhiều Trung Tâm Huấn Luyện Quân Sự thuận tiện mọi mặt đa nghề, đa dạng chuyên môn rất tuyệt vời ít nơi nào sánh được.
* Nào Bãi Dâu, Bãi Cát Tiên... Từ cảng Cầu Ðá đi thuyền tới Bãi Trũ trên đảo Hòn Tre chừng 15 phút, nơi đây vẫn giữ nguyên vẹn nét đẹp hoang sơ êm đềm mà phóng khoáng, với bãi cát mịn và trắng chẳng có nơi nào mịn màng mượt mà sánh kịp, là một bãi tắm rất lý tưởng, phong cảnh thiên nhiên hữu tình nên thơ. Hồ cá cách Cầu Ðá không xa trên đảo Bồng Nguyên (Hòn Miễu) được ngăn lại để chăm cá bằng hệ thống kè đá tinh tế quy mô, ngỏ hầu nuôi sinh vật sống trong biển, giữa hồ xây nhà thủy tạ, bãi cát mịn nước trong và sạch.

* Viện Pasteur (1891) lớn nhứt do chính bác sĩ Yersin thành lập. Ông Yersin sinh tại Pháp, cha ông là người Thụy Sĩ, mẹ người Pháp. Ông Yersin lớn lên thi đậu tiến sĩ, ông viễn du đến Việt Nam, tận tụy cống hiến đời mình cho khoa học, thành công trong việc trị bệnh dịch hạch. Ông là một trong những nhà thám hiểm đầu tiên khám phá ra thành phố Ðà Lạt thơ mộng. Theo di chúc mộ ông xây đơn giản, người ta liệm ông nằm sấp, mặt ông gục xuống tay ôm chặt đất Việt Nam vô lòng, đầu quay về hướng biển: Alexandre Yersin (1863 -> 1943), ở khu Suối Dầu. Nơi miền đất Việt Nam thân yêu nầy, là quê hương thứ hai của ông Alexandre Yersin. Bội phần kính trọng & ngưỡng mộ lắm thay!

* Ðứng dưới quốc lộ 1 ngoái nhìn lên là Tháp Bà rất đẹp, tháp ngự trên ngọn đồi cao đồ sộ uy nghi nằm ở phía Bắc thành phố, thuộc Phường Vĩnh Phước. Tháp chính tạc tượng tròn chạm nổi thần Ponagar cao 2m6 bằng đá hoa cương đen. Bà ngồi trên bệ đá ở đài sen (vợ của thần Shiva), thân tháp có thần Tenexa, tiên nữ, các con thú... dưới chân đồi là cửa sông Bóng. Tháp xây bốn tầng, một kiệt tác từ thời vua Chàm Harivarman, xây năm 813 tới năm 817 mới hoàn tất ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch. Tại tháp Bà từ bốn góc tháp nầy có bốn tháp nhỏ xinh xắn. Mặt ngoài các tháp có nhiều gờ, trụ, đấu trang trí hoa văn, lòng tháp rỗng tới chóp đỉnh có nhiều phù điêu, hình tượng người, hoa, thú vật...

* Tháp Bà có lễ hội tưng bừng náo nhiệt đông đúc vô cùng, để tưởng nhớ nữ thần Po Ino Nogar, các buổi lễ tiến hành long trọng, tôn nghiêm, họ ca ngợi bà mẹ Ponagar đã duy trì giống nòi, có công tạo dựng ra xứ sở Chăm. Mỗi năm vào mùa hội, họ thay xiêm y cũ của "Bà Mẹ", rồi chu đáo tắm rửa tượng thần, tẩm nhiều nước hoa thơm, đội mũ vương miện mới cho nữ thần, mặc xiêm y mới. Họ cầu xin an cư lạc nghiệp, thanh bình, ấm no:

Ai về xóm Bóng quê nhà
Hỏi thăm điệu múa dâng Bà còn không?

* Sau nghi thức cúng tế, họ trang trọng dâng hương trầm nghi ngút, dâng những điệu múa nhịp nhàng uyển chuyện, dâng hoa, cùng nhau hát bộ, rồi ăn uống linh đình. Chín mười người Chăm da nâu thẫm, mặc toàn đồ trắng, quấn khăn trắng ngồi dưới chân đồi bên mé lộ bán thuốc làm bằng rễ cây. Họ hiền lành chất phác nhẹ nhàng vui tươi cười nói chào mời khách, nhưng trong đôi mắt họ chất chứa một nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn đau của những kẻ đã bị cướp mất quê hương. Dưới chân tháp Bà là xóm Bóng đầy dẫy ghe thuyền chi chít lênh đênh bềnh bồng trên sóng nước.
* Tại Nha Trang có nhiều lễ hội: truyền thuyết về lễ hội Cá Voi cứu vua Gia Long trên biển. V.v... Nhìn xa chút nữa là Hòn Chồng một quần thể hải đảo xinh xinh, xếp lớp những khối to lớn nằm chông chênh trên khối nhỏ xíu. Trên khối đá lớn có in dấu một bàn tay to dị thường. Tương truyền rằng: thuở xưa có một ông khổng lồ ngao du sơn thủy vô tình ghé tạt qua đây, ông ta tình cờ nhìn thấy bầy tiên nữ đang vui vẻ tắm và đùa giỡn nơi sóng nước trong xanh, ông ta say sưa nhìn ngắm họ mải mê, đến nỗi ông bị trợt chân té xuống biển. Ổng liền chụp tay ở tảng đá nầy, mà ?bò? lên và trở thành ?hòn chồng?. Mấy cô tiên hoảng hốt chui núp vô hốc đá, hóa ra ?hòn vợ? nép mình bên Bãi Dương trải dài nên thơ xiết bao. Ha ha. Thế thì:

Bao giờ Hòn Chữ bể tư
Biển Nha Trang cạn nước anh mới từ nghĩa em
Trai gái yêu nhau mượn hình ảnh con đèo,
Cái Hòn để tỏ tình, thề thốt.
Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn
Mấy sông cũng lội mấy hòn cũng qua (ca dao)
Sau một đêm ăn cơm với thức ăn đặc sản miền duyên hải tuyệt ngon và khá rẻ:

Yến sào hòn Nội
Vịt lội Ninh Hoà
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thuỷ Triều
Ðời anh cay đắng đã nhiều
Về đây ngọt sớm, ngon chiều với em. (cd)
Khoai lang hòn Chúa
Ðậu phụng hòn Dung
Chồng đào vợ mót đổ chung một gùi. (cd)

Hai mẹ con vô ngủ trong khách sạn Hoàng Yến. Suốt ngày ngồi trên xe chật chội, một chân thòng xuống nền xe, một chân co lên ghế, cằm tựa trên đầu gối một cách phiền não, tôi quá mỏi mệt, tê buốt. Mong sớm hết một ngày đi đường xa nhọc nhằn, nên vừa tắm rửa xong, leo lên giường, thì hai má con liền thi nhau ngáy khò khò, tôi ngủ một giấc dài đến năm giờ sáng, không cựa quậy.
*

(1) ca dao
(2) Lê Chiến

Tình Hoài Hương

Mục Lục


3. Rau Bông Gòn

Bạch Liên




Ðơn sơ mái ngói quê xưa
Phơi mình hứng nắng, dầm mưa đêm ngày
Tre, mây, nứa, trúc rào xây
Dừa oằn buồng trái, ngọn cau vươn mình
*
Miền quê đời sống thanh bình
Sáng nghe chim hót, lung linh nắng vàng
Trưa hè gió thổi râm ran
Xế chiều nắng tắt, rộn ràng diều vươn
*
Gật gù trâu bước trên đường
Sau ngày bì bõm ruộng nương cấy cày
Lều tranh khói bếp vờn bay
Heo gà im tiếng, lá cây ngủ khò
*
Trên bàn canh cải thơm tho
Mâm cơm đạm bạc cá kho mặn mòi
Sông ngòi con nước ngược xuôi
Tôm cua, cá lóc nướng trui rơm vàng

*
Cánh đồng nhung mượt mà trải dài ruộng lúa đến cuối chân mây. Ðàn chim trắng phau lượn lờ cất cánh bay lên, rồi nhẹ nhàng xà đáp giữa bầu trời mênh mông. Thảm lúa xanh chen lẫn lốm đốm trắng đẹp như bức tranh thủy mặc do bàn tay người phun vẽ. Sắc nét hài hòa đã in khắc vào tâm trí những đứa con được sanh ra, hoặc có quê nội, quê ngoại thuộc vùng đồng bằng sông nước. Xa xa hơn nữa cận kề gần mũi Cà Mau là miền tây gạo trắng trăng thanh.

Ba tháng nghỉ hè là thời gian cho cô cậu cắp sách tha hồ rong chơi. Chân non dung dăng miệt vườn êm ả, đùa vui với lọn gió chiều miên man thổi mát rười rượi. Kỷ niệm hồn nhiên thời son gót cứ mãi đan xen vào nhau, lồng trong khung cảnh an bình. Con đường đất gập ghềnh lắng đọng trong ngăn ký? ức - hoài thương nhớ !

Khoảnh khắc mơ màng nhìn về quê xưa bên kia bờ đại dương, tôi chợt nhớ nhiều món ăn thơm ngon mộc mạc. Những tô canh không cầu kỳ, dễ nấu, vẫn còn tỏa ngát huơng thơm đồng nội.

Canh Rau Nhút

Khi còn là bé con với mái tóc bum bê, tôi chưa biết ăn nhiều món canh đậm đà hương vị miệt vườn. Có lẽ vào lứa tuổi thơ dại, non nớt, tôi chỉ thích món nào gần gũi với mình thôi. Tôi muốn nhắc nhớ đến canh rau nhút. Chung quanh cọng rau vây kín bởi lớp bông gòn trắng phau, đã vậy còn biết bao rong rêu, bèo xanh nhỏ xíu bám dính vào lá và thân. Ðôi mắt ngây ngô miên man quan sát, chỉ thấy ngồ ngộ và có chút tò mò:

· Tôi không hiểu tại sao ?
· Chỉ duy nhất rau này có bông gòn ?

***

Dòng sông đời mãi trôi. Bất chợt năm tháng nào đó, bàn chân chạm lên từng nấc thang, tập tành bước vào đời, tôi ăn thử canh chua rau nhút. Ôi thôị..lần đầu tiên nhâm nhi, tôi nhớ hoài và ghiền luôn ! Nhưng tiếc thay, sau lần nếm hương vị canh chua rau nhút ngon ngọt, thì quá muộn màng. Chẳng mấy chốc tôi rời xa nơi chôn nhau cắt rún.

Ðại dương ngăn cách đôi bờ. Canh rau nhút chỉ còn là nỗi nhớ lắng đọng trong tâm tuởng mà thôi. Hình như có người trồng được rau nhút ở quê huơng thứ hai. Nhưng tôi chưa thấy bao giờ. Chưa có dịp mua về nấu nồi canh chua với tôm tươi thèm thuồng đậm tình quê xưa. Nơi chốn quá xa tầm tay, đã vun bồi nhiều loại rau rất hiền lành, mà mây ngàn rào chắn lối về.

Mây xanh rủ áng mây hồng
Lang thang bay ra bờ sông
Máy ghe nổ nghe xình xịch
Lục bình e thẹn trổ bông
*
Mơ tìm dòng sông uốn khúc
Bập bềnh màu trắng, bèo xanh
Chùm rau bông gòn tên Nhút
Tôm tươi, chua ớt nấu canh


Bạch Liên


Mục Lục


4. Dạy Trẻ Có Thú Vui Ðọc Sách

Vũ Thị Hương Mai





Khi đã biết đọc, biết viết một cách thành thạo, trẻ sẽ rất ham đọc sách. Vì chúng mong muốn được tìm hiểu thế giới bí ẩn qua trang sách, bởi còn rất nhiều điều thú vị chúng chưa biết mà giờ chúng háo hức muốn biết. Ở tuổi này, trẻ đã có khả năng lý luận và hiểu được những gì chúng đọc. Sở thích đọc này của trẻ cần phải có sự động viên và ủng hộ của cha mẹ. Tuy nhiên, cha mẹ cần phải chọn lựa và khuyên bảo con nên và không nên đọc những loại sách gì. Ðối với lứa tuổi 6 - 7 thì chưa nên đọc truyện phức tạp mà chỉ nên đọc truyện tranh, báo Nhi đồng, các loại sách học ở lớp và những sách có liên quan đến việc học tập của các em.

Ham mê đọc sách cũng là một trong những biểu hiện của sự ham học hỏi. Nhưng không nên để các em quá lạm dụng vào việc này, mất quá nhiều thời gian sẽ ảnh hưởng đến việc học tập của các em. Nhiều khi cha mẹ không thật chú ý đến điều này, cho nên nhiều em đã ham mê đọc truyện tranh hơn cả học bài. Truyện tranh là thể loại mà hầu hết tuổi thiếu nhi rất ham thích, nhưng chỉ cho các em được phép đọc vào thời gian rảnh rỗi. Còn thời gian học bài thì tuyệt đối không được đọc sách truyện. Hãy coi việc đọc truyện tranh là một phần thưởng giải trí cho các em sau khi đã hoàn thành tốt bài vở ở lớp.

Không phải đứa trẻ nào cũng thích đọc sách ngay từ nhỏ, thậm chí có em rất lười đọc. Học ở lớp, nghe bài giảng của thầy cô thôi chưa đủ, mà còn phải đọc lại bài sau khi về nhà. Vậy nên việc đọc sách trước và sau khi đến lớp cũng là một cách tự học rất tốt cho các em. Cha mẹ cần động viên vào tạo dựng cho con trẻ thói quen này ngay từ khi còn nhỏ.

Ðọc cho vui và đọc để học khác nhau như thế nào? Hãy dạy cho trẻ biết phân biệt giữa việc đọc một quyển sách cho vui, để giải trí với việc đọc sách học. Giải thích cho trẻ hiểu, việc đọc giải trí có thể đọc một lần, còn đọc để học thì phải đọc nhiều lần và đọc rất nhiều. Vì mục đích của việc đọc để học là chuyển những kiến thức trong sách đó vào đầu và ghi nhớ lại. Hãy dạy con trẻ cách học trong sách. Giai đoạn thứ nhất là chuẩn bị: trẻ phải có cái nhìn tổng quát về chương học và bài học. Bạn hãy chỉ cho trẻ cách làm, sau đó dạy trẻ hãy đọc đến tiêu đề, hiểu rõ chương này chia làm mấy phần. Sau đó sẽ đọc chi tiết và cần ghi nhớ những điều quan trọng.

Nếu trong sách có bản đồ, sơ đồ thì phải quan sát cẩn thận để hiểu bài hơn. Nếu có những câu hỏi hay tóm tắt cuối chương thì nhắc trẻ phải đọc cho thật kỹ. Ðó chính là những nội dung chủ yếu được tóm tắt lại.

Sau đó, dạy cho trẻ cách đọc để học, để ghi nhớ chứ không phải chỉ đọc cho vui. Ðọc sách chính là cách tự tìm hiểu và lĩnh hội tri thức tốt nhất. Cần phải đọc một cách chủ động, có thể dạy trẻ dùng bút chì gạch dưới những câu quan trọng cần ghi nhớ. Ðó cũng là một cách đọc sách giúp ghi nhớ nội dung rất tốt. Mỗi lần đọc một chương hay một cuốn sách, cha mẹ có thể hỏi và trao đổi với trẻ để trẻ có thể ghi nhớ lâu hơn. Tuy nhiên, ở tuổi tiểu học thì chưa nên bắt các em đọc những loại sách quá dày và chi chít chữ. Lựa chọn các em những loại sách tham khảo dành cho lứa tuổi của các em, nó phù hợp với khả năng hiểu biết của tuổi các em.

Không phải đứa trẻ nào cũng có thú vui đọc sách, đôi khi còn rất lười. Cha mẹ cần phải giúp con trẻ tạo dựng hứng thú với sách báo ngay từ khi chưa biết đọc. Ðiều đó sẽ kích thích trí tò mò, ham tìm hiểu của các con. Lựa chọn những sách phù hợp với từng lứa tuổi để các con không nhàm chán. Cũng cần phải nghiêm khắc với trẻ trong việc đọc sách. Vì đôi khi chúng ham đọc truyện tranh hơn đọc sách học.


****

Vũ Thị Hương Mai

Mục Lục


5. Trò Chuyện Với Khoảng Không Trước Mặt


Tuyền Linh



TẬP II - Nước Mắt Ðàn Ông
Phần 1

01.1.2021 - Bạn hiền ơi, Tết sắp đến nơi rồi, bạn có gì vui không kể cho mình nghe với? Tính ra mình tạm biệt nhau cũng khá lâu bạn há, cũng hơn một tháng rồi còn gì? Nhớ những ngày còn lùm xùm ở Tòa án về việc kiện tụng tranh chấp gia sản làm mình mệt nhừ, mà chắc là bạn cũng không thua gì mình? Nội nghe mình kể những diễn biến méo mó trong thời gian hai bên tranh tụng nhau cũng đã no cả màng nhĩ rồi, nói chi những thứ khác. Tuy nhiên, dẫu mệt nhưng mình vẫn vui vì mình luôn hy vọng là mình sẽ thắng kiện nếu Tòa án xử công minh. Bây giờ, tình hinh dịch bệnh Covid-19 quả căng thẳng nên có thể việc kiện tụng của mình sẽ bị kéo dài, không biết đến bao giờ xử lại? Vậy nên mình và bạn tạm ngưng tâm sự về vụ Tòa án ở đây, khi nào vụ án tiếp tục xử, mình và bạn chia sẻ lại nhé ! Có một điều mà mình quên phân trần và giải thích với bạn từ trước, là mình thuộc dạng tha phương cầu thực nên ngôn từ của mình mỗi khi chuyện trò với bạn nghe pha trộn nhiều vùng miền khác nhau như Bắc, Trung, Nam xen lẫn? Chắc bạn cũng thắc mắc nhưng vì tế nhị, bạn không nói ra chứ gì? Ðôi lúc mình cũng có đọc lại một vài đoạn văn mình đã viết, mình thấy có điều ấy xảy ra nhưng mình không chỉnh lại cho đồng nhất ngôn từ vì mình cho đó là ngôn từ của bản năng ? nó rất thật và rất đẹp. Với mình, bản năng luôn THẬT nên mình muốn giữ nguyên như thế.

Thú thật với bạn, cũng có khi mình suy nghĩ, tại sao mình ? lai ? giọng nhiều vùng miền như thế? Mình cũng không biết nữa. Tính ra, hiện tại mình lai căng tới 3 giọng chính: Bắc, Trung, Nam, chưa kể giọng địa phương của các vùng miền nầy. Thú thật với bạn, những ngôn từ mình phát âm khi nói chuyện với ai, rất tự nhiên, vô thức. Nó đã ngấm vào máu thịt của mình tự bao giờ nên nó luôn đồng hành với mình trong mọi lãnh vực đời sống thường nhật. Trong định nghĩa của sách vở, người ta cho đó là sự lai căng, không tốt. Nhưng quan niệm của mình thì ngược lại, mình cho đó là những mốc thời gian ghi dấu một thời để yêu và để sống. Nó rất thiêng liêng, hồn nhiên và nhất là rất THẬT. Vâng, đúng thế! Bất cứ thứ gì trong hiện tượng lai căng của mình cũng đều thật cả. Thật đến dễ yêu. Có những đêm, mình nằm cố moi trí nhớ để tìm xem mình bắt đầu lai căng giọng nói từ thời điểm nào. Hồi mình còn độc thân, mình nói năng rặt tiếng Ðà Nẵng Quảng Nam mà. Lúc bấy giờ mình đang học cấp Trung Học Phổ Thông tại trường Phan Châu Trinh Ðà Nẵng. Rồi đến khi mình vào học lớp sinh viên giám thị hầm mỏ tại mỏ than Nông Sơn, mình quen bà vợ mình - Tạ Thị Minh Phương ? không hiểu sao tự nhiên mình bắt đầu lai giọng Bắc. Các bạn học lớp mình thường hay chọc ghẹo mình là dân mắm nêm mà bày đặt nói giọng rau muống. Cũng có vài bạn góp ý thẳng với mình: ? Này mày, thà mày nói giọng nào một thứ giọng thôi, lúc xen Quảng Nam lúc xen Bắc nghe sao ấy. Mầy trong cuộc không thấy gì nhưng tụi tao ngoài cuộc thấy khó nghe lắm. Tao góp ý chân thành đó, đừng buồn nghe! ?

Cho đến bây giờ mình vẫn còn nhớ như in giọng trêu chọc có phần thô lỗ của các bạn: ? Ê mầy, chắc mầy hun và uống nước miếng con bồ mầy nhiều quá nên lai giọng Bắc Kỳ chứ gì? Mầy coi chừng, lỗ đít cô nàng có cọng rau muống đó! ? . Mình nghe, giận đỏ mặt tía tai, nhưng rồi nguội ngay, vì nghe mắc cười quá. Mình còn nhớ năm đó là năm 1963. Mà Phương là người Bắc thật, cô ấy quê Nam Ðịnh, theo gia đình di cư vào Sài Gòn năm 1954. Gia đình Phương định cư tại Sài Gòn, chỉ một mình Phương ra sinh sống và làm việc tại Ðà Nẵng. Lúc bấy giờ Phương đang công tác bên ngành xã hội thuộc hệ thống quân đội chế độ cũ. Mình quen Phương trong một chuyến Phương đi công tác xã hội tại mỏ than Nông Sơn. Nông Sơn là một huyện lỵ thuộc tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Ðà Nẵng 30 km. Lúc bấy giờ, cả mình và Phương đều cư trú tại thành phố Ðà Nẵng. Tuy vậy, hai đứa rất ít khi gặp nhau, bởi mình học cố định tại mỏ than Nông Sơn, còn Phương thì thường xuyên đi công tác ở các quận huyện. Cá nhân mình thì mỗi tuần được về phép một lần vào thứ bảy và chủ nhật, nhưng cũng hên lắm mới gặp được Phương, vì Phương thường đi công tác lung tung, không có ngày giờ nhất định. Phương tạm trú tại cư xá cán sự xã hội, chỗ Phương ở nằm bên kia sông Hàn, thuộc quận ba thành phố Ðà Nẵng. Mỗi lần muốn gặp Phương, mình phải qua đò ngang mới đến được chỗ Phương ở. Kể ra thì cũng lắm vất vả nhưng cũng rất lãng mạn, nhất là về đêm. Bạn biết không, tụi mình thỉnh thoảng thường thuê đò ngang tính giờ để bồng bềnh ngắm trăng sao những lúc rằm trăng. Thật thú vị bạn à.

Mình quen Phương đâu được một năm thì Phương dọn nhà qua ở chung với bà chị họ bên trung tâm thành phố, không còn ở cư xá tập thể bên kia sông Hàn nữa. Thời gian nầy tụi mình có điều kiện địa lợi để khắng khít nhau hơn. Chị họ Phương là chị Soạn, vợ của đại úy Soạn đang công tác tại sư đoàn 2 bộ binh. Anh Soạn thường xuyên đi hành quân xa nên nhà chị Soạn cũng vắng vẻ lắm. Có Phương về ở, chị rất vui. Nhà chị Soạn tương đối rộng rãi thoáng mát. Chị dành riêng cho Phương một phòng đầy đủ tiện nghi, kể ra cũng tiện cho việc lui tới của mình mỗi khi đến thăm Phương. Nhà chị Soạn nằm ngay trước mặt tiền, đối diện với nhà ga xe hỏa thành phố Ðà Nẵng nên cũng khá vui. Tuy vậy, bên cạnh cái vui cũng có cái không vui, đó là suốt ngày đêm đều nghe tiếng còi tàu hụ. Lúc đầu thì mình cảm thấy khó chịu, nhưng riết rồi cũng quen. Ðược cái là dân cư ở đây hiền lành lắm, rất thật thà dễ mến. Ðược nữa là ga xe lửa Ðà Nẵng ít khi xảy ra những cảnh hỗn tạp như ga xe lửa Sài Gòn nên mình rất thích.

Phương ở nhà chị Soạn đâu được hai năm, từ năm 1962 đến năm hết năm 1963 thì Phương thuê phòng riêng trên đường Hoàng Diệu để ở. Trước khi chuyển đổi chỗ ở, Phương cũng có bàn bạc với mình, mình thấy đây là vấn đề nhạy cảm và hợp lý nên mình cũng OK.
Từ địa điểm mới Phương ở đến cơ quan Phương công tác khá gần nên rất tiện thời gian đi làm. Hơn nữa, nhà mới nầy cũng tọa lạc trước mặt tiền đường phố nên rất tiện việc cho xe đưa rước Phương đến sở làm mỗi ngày. Phương ở chung trong một gia đình công chức nhà nước nên việc ăn uống cũng tiện. Bà chủ nhà nấu cơm tháng cho Phương ăn luôn. Phương chỉ ăn cơm chung với gia đình bà chủ nhà vào buổi chiều, buổi trưa Phương dùng cơm tại cơ quan. Tuy ở chung nhà bà chủ, nhưng Phương có phòng riêng khá thoáng mát, biệt lập, phòng lại được tiếp giáp với mặt lộ bên ngoài. Nhờ vậy, mỗi lần mình đến thăm Phương rất tự do. Cũng có nhiều lúc khuya khoắt, lười về nhà, mình ngủ đêm lại với Phương trong phòng cũng không sao. Ê, mà nói đến đây bạn đừng cười nghe! Người ta thường nói, lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, mà mình thì dứt khoát không ? bén ?. Không được bén. Một mệnh lệnh nội tại. Bạn muốn biết lý do của sự khác thường nầy ư? Dễ thôi, bạn biết đó, lúc bấy giờ mình còn đang là sinh viên hầm mỏ thực tập, mỗi tháng mình chỉ được hưởng lương 1.500 đồng; làm sao mình có thể trang trải mọi nhu cầu đời sống nếu Phương có bầu? Ðó là chưa nói đến chi phí đám hỏi, đám cưới. Phải nhịn thôi. Phải nhịn! Sao bạn trố mắt nhìn mình như thế? Mình biết bạn đang nghĩ gì? Bạn yên tâm, mình rất chuẩn MEN, rất chuẩn. Sở dĩ mình sống được như vậy là nhờ mình biết điều tiết lý trí một cách triệt để hòng áp chế bản năng. Thế thôi! Mình cũng thừa biết tính dục là chất xúc tác hữu hiệu trong lãnh vực luyến ái của đôi nam nữ, ngay cả trong tôn giáo cũng công nhận điều nầy. Ðó là hương vị của tình yêu. Giới tính và tính dục là ân huệ Thượng Ðế ban cho con người. Con người là một thực thể gồm xác và hồn. Xác và hồn không phải là hai phần cô lập nhau, mà chúng liên hệ mật thiết với nhau, tác động lên nhau một cách sâu xa. Do đó, khi hai người sử dụng giới tính để nên một với nhau và sinh sản con cái, thì đây không phải là chuyện sinh lý thuần túy, mà còn liên quan đến điểm thâm sâu nhất trong ngôi vị con người là TÌNH YÊU. Tính dục có một vai trò quan trọng trong tình yêu. Nó là ngôn ngữ của tình yêu, giúp con người thông đạt với nhau một cách sâu xa nhất. Tuy biết vậy, nhưng có đôi lúc, tính dục nó hành hạ mình một cách dữ dội, nhưng mình cố cắn răng chịu đựng thôi. Rồi mình tự an ủi mình, mình đang nuôi dưỡng tình yêu cho đủ lớn. Bạn thấy đó, mình mâu thuẫn với bản thân mình ghê chưa! Chung quy chỉ tại vì mình lúc bấy giờ còn nghèo quá. Mình xác nhận với bạn, suốt trong hai năm 62 và 63, mình sống với Phương hoàn toàn như vợ chồng, trừ chuyện đó. Dĩ nhiên là mình phải gồng mình?gồng mình?và gồng mình?!

Qua năm 1964, đây là mốc thời gian đánh dấu sức con người chịu đựng có hạn đối với những gì đi ngược lại với thiên nhiên, mà cụ thể là bản thân mình - Phương có thai. Khi biết chính xác có bầu, tụi mình nửa mừng nửa lo. Mình tức tốc về báo cho các chị mình biết, rồi thì mỗi chị đóng góp một ít tiền để lo đám cưới cho mình. Ông anh rễ lớn của mình đại diện bên nhà trai đi theo mình vào Sai Gòn để lo đám cưới. Hôn lễ cử hành rất đơn sơ, nhưng mình cảm thấy hạnh phúc. Tuy đơn sơ, nhưng tiệc cưới hai họ cũng được ăn uống tại Nhà Hàng đàng hoàng. Sau tiệc, vợ chồng mình tạm về khách sạn nghỉ thay vì rước dâu về nhà chồng. Nhà chồng có đâu mà rước dâu? Mọi việc rồi cũng qua.

Rồi 2 tháng?4 tháng?7 tháng?.9 tháng?, đến ngày khai hoa nở nhụy. Phương sinh nở tại nhà hộ sinh Phao Lồ Ðà Nẵng vào ngày 28 tháng 9 năm 1964. Con đầu lòng của mình là gái, mình đặt tên Nguyễn Thị Giáng Hương. Ai cũng nói tên con gái mình thật đẹp, và họ nghĩ mình đã chuẩn bị tên Giáng Hương từ trước, nhưng kỳ thực không phải vậy. Ngay cả ngày giờ sinh con gái mình, mình cũng không có mặt tại nhà hộ sinh. Lý do: mình bị Quân Cảnh bắt lính quân dịch tại ngã tư Phan Chu Trinh, và tức tốc bị đưa về trại nhập ngũ ngay sau đó. Tại đây, người ta phân loại, mình thuộc diện trốn quân dịch 4 năm nên không được ưu đãi gì. Mình sinh năm 1940, đáng ra mình phải trình diện đi nghĩa vụ năm 1960 mới đúng. Vì lẽ ấy, mình không được phép tự do về thăm nhà để báo tin. Trong trại nhập ngũ, mình nhờ anh bạn báo tin về nhà, và sáng hôm sau, bà chị mình vào thăm mình, đồng thời cung cấp cho mình vài thứ cần dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Thú thật với bạn, mình rất buồn khi bị bắt bất ngờ. Dẫu sao, mình cũng mừng là Phương sinh nở được mẹ tròn con vuông.

Mình bị chuyển đi ngay vào Trung tâm Huấn luyện Quang Trung Sài Gòn sau 2 ngày ở tại trại nhập ngũ Ðà Nẵng. Tại đây, chế độ sinh hoạt có vẻ dễ thở hơn. Mình viết thư về nhà để báo tin cho Phương biết là mình vẫn khỏe, đồng thời ghi tên con gái đầu lòng của tụi mình là Giáng Hương để Phương làm giấy khai sanh. Tên Giáng Hương được ghi trong một khoảnh khắc đầu óc mình rỗng tuếch, mình không suy nghĩ gì cả. Mình cũng không hiểu tại sao như vậy nữa (?). Hình như nó đã ươm mầm trong đầu mình từ lúc nào, rồi bấy giờ tự động đâm chồi một cách rất tự nhiên, không tính toán, không suy nghĩ. Phải chăng đây là duyên định?
Ngày 10 tháng 10 năm 1964, mình đang ngồi kê khai lý lịch trích yếu thì bỗng có giấy mời lên văn phòng huấn luyện gặp cán bộ chỉ huy. Mình hết hồn, không biết chuyện gì nữa đây? Mình vội chạy lẹ một mạch lên văn phòng cán bộ chỉ huy thì bất ngờ gặp ông anh vợ mình, anh Tạ Phấn Tuân, anh ruột của Phương. Anh ấy mang quân hàm đại úy. Anh nhìn mình và nở nụ cười trìu mến ấm lòng. Thú thật với bạn, mình chỉ gặp anh ấy một lần duy nhất trong thời gian làm đám cưới tụi mình tại Sai Gòn. Thậm chí, mình cũng không biết anh ấy là quân nhân đang tại ngũ. Kể từ khi đó cho đến khi Phương sinh nở, mình không gặp lại anh ấy bao giờ. Cũng dễ hiểu thôi, mỗi người một việc mưu sinh. Hơn nữa, khoảng cách địa lý giữa Sài Gòn và Ðà Nẵng quá xa. Hiểu được điều nầy nên hai anh em mình cũng ngầm thông cảm nhau. Anh ấy đưa cho mình những món ăn thức uống mà bà già vợ mình gởi vô cho mình. Hai anh em mình chuyện trò cũng khá lâu, gần một tiếng đồng hồ. Anh dặn dò mình rất kỹ mọi chuyện trong sinh hoạt quân trường, nhất là không nên khai có bằng tú tài và chớ dại xin chuyển qua trường sĩ quan bộ binh Thủ Ðức. Mọi việc anh sẽ giải thích cho mình nghe sau. Mình chẳng hiểu gì cả, chỉ biết vâng dạ thôi. Sau khi dặn dò kỹ mọi điều, anh ấy vỗ vai mình và quay lui leo lên xe vespa chạy một mạch.

Mình về lại trại đóng quân mà đầu óc cứ suy nghĩ hoài. Qua sáng hôm sau, trung đội mình theo Thượng sĩ Huân ra bãi tập, trong thời gian nghỉ giải lao; mình hỏi thăm Thượng sĩ Huân về Ðại úy Tạ Phấn Tuân, thì ra mới biết anh ấy là trưởng phòng quân số của trại nhập ngũ Quang Trung. Mình mừng thầm?

( còn tiếp )


****

Tuyền Linh

Mục Lục


6. Một Cái Nhìn Lệch Lạc Của Lịch Sử Văn Học


Hoàng Long Hải



Về Văn học chữ Nôm thế kỷ19

Sau khi nhà Lê trung hưng, nước ta bắt đầu thời kỳ phân ly - Nam/ Bắc triều, - kéo dài mấy chục năm, từ 1553 đến khi nhà Mạc dứt nghiệp ở Cao Bằng, năm 1593. Ngay trước năm nầy, Nguyễn Hoàng đã vào Nam, 1558, là năm "ngòi nổ" cho cuộc Nam/ Bắc phân tranh, kéo dài mãi đến năm 1802, là năm Nguyễn Ánh lên ngôi vua, sau khi nhà Tây Sơn bị tiêu diệt.

Nhìn lại một quá trình như thế, nước ta lọan lạc lâu dài, thử hỏi có cái gì gọi là phát triển được. Những người viết sử, văn học sử - ngoại trừ mấy tay Cộng Sản, đã đeo vào mắt cặp kính màu "giai cấp đấu tranh" - có thể trung thực mà nói rằng chính nhờ "Gia Long thống nhứt sơn hà", tình hình chính trị, xã hội, giáo dục, văn học? mới ổn định và phát triển.

Chỉ riêng về mặt văn học, thơ văn sáng tác phong phú hơn trước. Về văn học chữ Nôm, trong một thời gian dài, bị coi thường là một thứ "nôm na là cha mách qué", tới bấy giờ, với tinh thần độc lập - với nước Tàu -, được giới sĩ phu yêu chuộng nhiều hơn, "xử dụng" trong văn chương nhiều hơn. Nhiều nhà thơ chữ Nôm xuất hiện với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Nhất là trong thời kỳ văn học chữ Nôm? hậu bán thế kỷ thứ 19. Người ta có thể "chứng minh" bằng các tác phẩm "lớn" của thời kỳ nầy như "Truyện Thúy Kiều" của Nguyễn Du (1766-1820), "Chinh Phụ Ngâm" của Ðặng Trần Côn (1705-1745) và Ðoàn Thị Ðiểm (dịch, 1705-1749), "Cung Oán Ngâm Khúc" của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798).

Văn học chữ Nôm phát triển đến đầu thế kỷ 20 thì khựng lại vì "thời thế đã đổi thay": Một là vì Tây đã cai trị nước ta, Tây cần đào tạo một lớp "cán bộ mới" biết Quốc Ngữ và tiếng Tây. Người ta theo "Tây học" để làm "tay sai" - nói theo cách thông thường, và theo các phong trào Tây học như "Phong trào Ðông Du", "Phong trào Duy Tân", Triều đình nhà Nguyễn bỏ lệ các khoa thi chữ Hán, - chữ Nho - để chọn nhân tài ra làm quan giúp vua trị nước?.

Phong trào "Chữ Quốc Ngữ" phát triển ngày càng mạnh, vào thời kỳ đầu thế kỷ 20, cùng với sự giáo dục theo Tây Học càng ngày càng mạnh, ở khắp ba kỳ.

Về Phong trào thơ mới

Với bài "Tình già", - Phan Khôi, năm 1925 ? cùng vài tác giả khác như Lưư Trọng Lư, phong trào thơ mới ra đời ..Hai mươi bốn năm xưa, Một đêm vừa gió lại vừa mưa .., ?Em quay tơ, Chàng ngâm thơ, Vườn sau oanh giục giã, Nhìn ra hoa đua nở .. Với nhiều lý do khác nhau, thơ cũ bị đánh bạt ra ngoài lề "Dòng Văn Học". Những người làm thơ cũ, như Nguyễn Khuyến, Dương Khuê đã ra ngời thiên cổ, hay "thúc thủ", không còn làm thơ nữa. Dòng thơ của họ cũng không còn. Trên thi đàn, người ta chỉ còn thấy Quách Tấn chơ vơ với "Mùa Cổ Ðiển". Bà Thụy Khuê của đài RFI nhận định rằng Quách Tấn là "nhà thơ cuối cùng" của dòng thơ cũ.

Nói như vậy là sai.

Ðối với người xưa, thơ là "cái thú chơi tao nhã", nên họ chỉ "chơi với nhau". Ở những xứ sở có giáo dục và văn học cao, thường là nơi triều đình nhắm vào để tổ chức các "trường thi", chẳng hạn như "trường Nam" - Nam Ðịnh và các vùng chung quanh, ?trường Hà? - Hà Nội, "trường Nghệ" cho vùng Thanh/ Nghệ/ Tĩnh, "trường Thừa" cho kinh đô Huế/ Thừa Thiên và các tỉnh chung quanh - Do đó, sĩ tử, sĩ phu, giới văn học có cơ hội gặp nhau trong việc học hành, thi cử? và cơ hội để trà rượu, trao đổi thơ văn, văn học?

Trong số các "trường" nầy, có lẽ "trường Nghệ" là nơi tập trung nhiều "tao nhân mặc khách", nhiều văn nhân, thi hữu, thi bá, thi ông? Tính cách ?tập trung? như thế khiến các nhà viết "văn học sử" thế kỷ 20, khi giới thiệu, phân tích, phê bình về các nhà văn thơ, thường tập trung vào các vùng "danh tiếng". Từ đó, người đọc, người ngưỡng mộ tập trung chú ý vào vùng nầy mà ?bỏ quên? các vùng có số lượng sĩ phu ít hơn, văn nhân thi sĩ ít hơn. Ðó chính là cách nhìn của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học, các nhà viết văn học sử khi viết về văn học cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Ðó là chưa kể tới một vài nhà thơ/ văn có cái nhìn khinh mạn về các nhà thơ/ văn không cùng xứ sở, hoặc không cùng phe/ nhóm. Những câu nói như ?Thiên hạ có bốn bồ chữ?? hoặc "Câu thơ thi xã" cho chúng ta quan điểm ấy.


Âm thầm

Trong một môi trường văn học "phân biệt" như thế, ở một thời kỳ lịch sử "cái học nhà Nho" đang càng ngày càng lụi tàn như thế, người ta vẫn thấy có một số người làm thơ vẫn âm thầm sinh hoạt, làm thơ, trao đổi, xướng họa, vẫn giữ lấy thơ, vẫn coi thơ như một thứ gia sản truyền thừa từ cha ông, vẫn cứ gìn giữ nó, bảo vệ nó, vui với nó và vẫn sáng tạo bằng những hình thức thơ cũ: Thất ngôn bát cú, song thất lục bát, ca trù, ca Huế để bảo tồn ?vốn liếng của cha ông?.

Cách tự "khoanh vùng" văn học như nói ở trên làm cho người ta có cái nhìn sai lệch về lịch sử nhiều lắm. Ngay những sách giáo khoa Việt Văn cho học sinh lớp Ðệ Tứ - thi Trung Học Ðệ Nhứt cấp, - hay lớp Ðệ Nhị - Thi Tú Tài 1 ? như sách của ông Bùi Hữu Sủng, cũng chỉ dạy, bàn nhiều về các nhà thơ văn gốc ?trường Nghệ?. Như kinh nghiệm của tôi khi học thi, cũng chỉ thấy vậy. Nếu không có câu thơ của Cao Bá Quát chê thơ của "Mạc Vân thi xã": "Câu thơ thi xã, chiếc thuyền Nghệ An" thì chưa chắc tôi biết rằng "Huế tui" có một "băng thơ" của một ông Hoàng - Ông Hoàng Tuy Lý Vương - và bạn ông ở kinh đô Huế. Tui không có thì giờ, cũng như đủ trình độ để bàn việc nên hay không nên đưa thơ ?Thi Xã? vào chương trình giáo dục, nhưng rõ ràng các nhà thơ văn, các nhà phê bình văn học, không thiếu mặc cảm, định kiến khi bàn về thơ của ?ông Hoàng mười một? và bạn của ông. Về sau nầy cũng vậy, sách báo phê bình văn học, sách giáo khoả ít khi bàn tới thơ của nhóm ?Hương Bình thi xã? của Ưng Bình Thúc Giạ? trong đó, thêm cụ Nguyễn Khoa Vy, và vài nhà thơ khác nữa, và cụ Kỉnh Chỉ. Cụ Kỉnh Chỉ làm thơ hay. ?Thầy Kỉnh Chỉ tiếng hay thi, Âm vận thanh tao ít kẻ bì.? Xin đừng nghĩ rằng mấy ?ông? nhà thơ nầy "mặc áo thụng" vái nhau. Hãy đọc "Thơ Kỉnh Chi" đi, mới giựt mình.

Xin nói thực rằng, cách nhìn ?Thiên hạ có bốn bồ chữ? của Cao Bá Quát khá phổ biến trong giới văn học. ?Văn mình, vợ ngườỉ, ?chỉ có thơ của ta là nhứt thiên hạ?. Hồi nhỏ, học lớp Nhì, lớp Nhứt, tôi ngốn không ít tác phẩm của các nhà văn Nam Bộ, từ những ?Sách Bạn Trẻ? của Nhà xuất bản Tân Việt, gần như thuộc lòng ?Khói lửa Toàn Dương?, ?Con đường nghĩa vụ?, ?Mây trôi về Bắc?, ?Xin đắp mặt tôi mảnh lụa hồng?, ?Mẹ cũng chết vì Tổ Quốc?, ?Mặt trận Hoàng Su Phì?? và đọc một hơi hết bài ?Ðây Tha La xóm đạỏ? trong ?Nửa bồ xương khổ của Vũ Anh Khanh. Thế rồi nhóm nầy, có khuynh hướng kháng chiến - chống Pháp - những người tôi yêu thích như Tô Nguyệt Ðình, Thẩm Thệ Hà? biến mất. Cuộc di cư năm 1954 đưa một số văn nghệ sĩ chống Cộng từ ngoài Bắc vô, chiếm lĩnh văn đàn. Ngay như Võ Phiến, cũng là một nhà văn chống Cộng miền Trung, sau khi vào Nam, cũng phải ?chật vật? lắm mới chường nỗi mặt của ông lên với văn đàn chống Cộng Saigon.

Thành ra, cũng có người, không thấy các nhà thơ cổ cuối cùng ở Miền Nam ở đâu hết, thậm chí họ không quan tâm hay cũng không biết "Hương Bình thi xã" là nhóm thơ nào, cũng như "Tao Ðàn Diêu Trì" gồm những ai.

Tôi được điều may mắn.

Khoảng sau năm 1960, khi tôi đang dạy Việt Văn ở Trường Trung Học Ðệ Nhị Cấp Bán Công Huế thì ông Hoàng Trọng Thược cầm một tập thơ ông mới soạn xong đến thăm ông hiệu trưởng trường tôi dạy. Anh Hoàng Văn Xướng và tôi được ông hiệu trưởng gọi đi với ông gặp "khách thơ".

Tôi nói với anh Xướng: "Dòng họ Hoàng Trọng nầy nổi tiếng văn học ở Nguyệt Biều đây (làng Nguyệt Biều - tg) đâỵ? Nói như thế là bởi "dư luận Huế", và cũng vì tôi đã đọc "Việt Nam Văn Học Toàn Thư" cuốn 1 - phần nói về ?Truyện thần thoạỉ của Hoàng Trọng Miên - Ông là anh hay em với Nhà Văn Thanh Nghị - Hoàng Trọng Quỵ - Sự xuất hiện của cuốn ?Văn học Toàn thử gây không ít tranh cãi trong giới văn học Saigon, có người nói nặng lời rằng ông Hoàng Trọng Miên - trong phần ?Truyện Thần Thoạỉ đã ?ăn cắp? truyện ?Trường ca Ðăm San? của Nguyễn Ðổng Chi ? thân phụ ông Nguyễn Huệ Chi - Có dịp tôi sẽ nói thêm sau. (1).

Trong khi các ông kia đang nói chuyện với nhau, tôi vừa ngồi nghe, vừa tò mò cầm cuốn sách của ông Hoàng Trọng Thược mở ra xem, thấy tác giả giới thiệu phần nhiều các nhà thơ, văn không có tên trong chương trình Việt Văn của Bộ Quốc Gia Giáo Dục - thành ra không cần thiết cho các giáo sư đang dạy Việt Văn thời bấy giờ, ở trung học cũng như Ðại Học Văn Khoa ? Ðại Học Huế. Như sau đó tôi nói với mấy người nói trên, cuốn sách của ông Hoàng Trọng Thược không cần thiết cho việc dạy học của chúng tôi. Về các tác giả trong sách của ông Hoàng Trọng Thược, chỉ bàn tới các tác giả gần cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các nhà thơ trong ?Hương Bình Thi Xã?, ?Tao Ðàn Diêu Trì? và những nhà thơ ngoài hai nhóm nầy nhưng cùng thời với nhau. Tuy vậy, tôi hết sức vui mừng và thích thú khi thấy trong sách ấy có giới thiệu thơ của Cụ Kỉnh Chỉ, ?ông anh bà con xả của mẹ tôi. Xa mà lại rất gần vì hồi nhỏ, nhà ?Cụ Ðốc Hỷ, - tiếng người dân Quảng Trị thường gọi ông một cách tôn kính, thân thương, ở bên kia ngã tư ? ngã tư ?đường Gả và đường Cửa Hữu, đường từ cửa thành cổ Quảng Trị đi ra phía bờ sông Thạch Hãn - nhà tôi thì ở bên nầy, mẹ tôi cũng làm việc ở bệnh viện Quảng Trị hơn 10 năm, khi ấy ?Cụ Ðốc? làm giám đốc bệnh viện. Cũng hồi đó, khi chưa tới tuổi học lớp Ðồng Ấu với Cô Hồ, cô giáo đầu đời của tôi, ?thấỷ ông Cụ trên đường ông đi làm hay về, không biết bao nhiêu lần, mà lần nào tôi cũng phải trốn vì ?sợ ông như sợ cọp?. (2).

Chương trình giáo dục Văn Chương Việt Nam cho học sinh thời kỳ bảo hộ (tìm hiểu trong sách ?Việt Nam Văn Học Sử Yếủ của Dương Quảng Hàm), thời chính phủ Trần Trọng Kim - có khi người ta gọi là ?chương trình Hoàng Xuân Hãn - thời kỳ Quốc Gia hay thời Cộng Hòa, nhìn chung, đều giống nhau: Sơ lược về văn chương chữ Hán, giảng dạy về văn chương chữ Nôm thế kỷ 19 là trọng điểm, chỉ nói qua văn chương chữ Nôm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, (thời kỳ Phong Trào Ðông Du và Phong Trào Duy Tân), lại chuyên sâu về văn chương chữ Quốc Ngữ... Nói chung, mục đích chương trình nầy là giới thiệu và giáo dục về văn học Việt Nam, xây dựng cho người học có một kiến thức căn bản về văn học Việt Nam. Trong viễn tượng đó, chương trình giáo dục nầy đã có tính cách ?ôm đồm?, nên không thể không có ít nhiều thiếu sót, mặc dù thời Ngô Ðình Diệm, trong khi ngoài Bắc đang đàn áp các nhà văn thơ trong ?Phong trào Trăm Hoa Ðua Nở? thì trong Nam có cải cách về giáo dục văn chương, đưa văn học mang tính tiểu tư sản vào dạy cho học sinh, sinh viên để chống lại ?văn chương vô sản? của Cộng Sản Bắc Việt. Trong tình hình chống nhau giữa hai phe Cộng Sản và Tự Do ở Việt Nam thời bấy giờ, muốn thành công trong công cuộc chống Cộng, người ta không thể làm khác được. Hình ảnh của Dũng (trong Ðôi bạn và Ðoạn Tuyệt), khi bình tĩnh và hiên ngang ra đứng trước vành móng ngựa của Thực Dân Pháp đã được soi sáng lên, làm tấm gương sáng cho thanh niên miền Nam khi họ cầm súng ra chiến trường.

Cách đây hơn mười năm, tôi được biếu tập "Thơ Kỉnh Chỉ" do các con cháu của Cụ Ðốc sưu tầm và xuất bản. Hồi trước, khi còn dạy học, đọc sách của Hoàng Trọng Thược, tôi thấy tác giả chỉ trích một số bài thơ của Cụ Kỉnh Chỉ. Bây giờ thì nhiều lắm, cả một cuốn thơ dày, càng đọc thơ của Cụ, tôi càng thấm thía về cái tình người ? và cả tình yêu của Cụ đối với con người, quê hương, làng xã, đất nước, đồng bào... Những đặc điểm nầy, tôi đã có nói trong bài tôi viết về tiểu sử của Cụ, in trong tập "Viết về Quảng Trị", quê ngoại tôi. Chỉ một lòng yêu làng quê của mình, làng Nhan Biều - bên kia sông Thạch Hãn, ngang với thành phố Quảng Trị bên nầy, Cụ viết những mấy bài thơ. Về tết Mậu Thân, trước cảnh chết chóc và đau thương của Huế, Cụ có những ba bài thơ, chứng tỏ Cụ đau đớn lắm cho nỗi khổ của đồng bào Huế của Cụ, chưa kể trước đó, trong thời bình, sông Hương núi Ngự, cũng đã làm cho Cụ xúc động nhiều qua những bài thơ, ca Huế... mà Cụ đã từng sáng tác.

Cũng bởi "méo mó nghề nghiệp", dạy Việt Văn, tôi dự trù "chắc phải viết vài nhận xét" về thơ của Cụ như tôi đã từng viết về các tác giả thơ Nôm khác trong sách giáo khoa của tôi để dạy cho học sinh, nhưng sau khi đọc bài của ông Tôn Thất Kỳ giới thiệu và nhận xét về thơ Cụ in trong sách nói trên, tôi bỗng bỏ ý định đó. Bài của ông Tôn Thất Kỳ viết đầy đủ và hay quá, làm cho tôi ngại, nên lại thôi.

Nhưng tôi vẫn bị ám ảnh về sự thiếu sót ? hay lệch lạc? của những nhà giáo dục, những người viết lịch sử văn học, cố ý hay vô tình bỏ quên những nhà thơ cổ điển, - ngay cả trong ?Thi nhân Việt Nam? của Hoài Thanh/ Hoài Chân cũng vậy luôn, đến nỗi Thụy Khuê phải nói rằng Quách Tấn là nhà thơ cuối cùng làm thơ cổ. Có lẽ Thụy Khuê chỉ biết có một mình quyển thơ ?Mùa Cổ Ðiển? của ông Quách nằm chơ vơ trong một thư viện nào đó ở Paris hay chăng, trong khi ở Việt Nam, sau ?phong trào thơ mớỉ, người làm thơ cổ cũng còn nhiều lắm. Chương trình giáo dục của Bộ Quốc Gia Giáo Dục đã bỏ quê họ, tác phẩm của họ đấy thôi.

Ngay cả khi còn ở trong tù cải tạo, tôi cũng đã biết thêm vài nhà làm thơ cổ điển. Rồi đến khi gặp nhà thơ Hoàng Vũ ở Pulau Bidong, tôi lại được nhà thơ xứ Quảng nầy cho tôi biết thêm về một số nhà thơ cổ điển khác nữa ở miền Nam trước 1975, và một số nhà thơ từ miền Bắc vào Nam sau năm 75 đó. Vì vậy, trong tập hồi ký ?Bèo giạt?, tôi có dành một chương để viết về Hoàng Vũ và bạn thơ của ông, khi ông chưa vượt biên năm 1989. Xin trích một đoạn:

?Thời tiền chiến, trong khi phong trào thi ca lãng mạn đang lan rộng khắp nước ta, người ta đua nhau làm thơ mới, từ hình thức đến nội dung, chịu ảnh hưởng không ít của thi ca lãng mạn Pháp thì Quách Tấn đi ngược chiều. Ông làm thơ cổ điển, xuất bản một tập thơ cổ điển (tập ?Mùa Cổ Ðiển?). Ông là đóa hoa cô đơn và nổi bật trong thời kỳ đó về những bài thơ làm theo lối cổ của ông, mà nổi tiếng nhất là bài ?Ðêm Thu nghe quạ kêủ, với nhiều thành ngữ, điển cố - lối làm thơ chứng tỏ sự uyên bác cổ văn mà rõ nhất là ?Cung Oán Ngâm Khúc? của Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều. Ðây là một bài thơ hay, tôi xin ghi lại như sau:


Ðêm Thu Nghe Quạ Kêu

Từ Ô Y Hạng rũ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương sông bạc
Lặng lẽ nhà ai rụng giếng vàng
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.

(Quách Tấn - Mùa Cổ Ðiển)


Ô y hạng: Ngõ áo thâm, tức là ngõ nhà quan, người trong họ mặc cùng một màu áo. Tỷ dụ như giòng họ ông Phan Ðình Phùng (12 đời, đời nào cũng có người đổ đại khoa - tiến sĩ), dòng họ đại thi hào Nguyễn Du, dòng họ Thân Trọng, Hà Thúc, Nguyễn Khoa ở Huế, nhiều đời đổ đại khoa và làm quan to trong triều.

Bến Phong Kiều: Ý từ trong bài thơ Ðường nổi tiếng "Phong Kiều Dạ bạc" của Trương Kế.

Xích Bích: Chỗ đóng quân của Tào Tháo trên sông Trường Giang. Khổng Minh bày mưu hỏa công cho Tôn Quyền đốt cháy thuyền của Tào.

?Những người làm thơ chân chính thì không về hùa với ai để dùng thơ làm nấc thang danh vọng như Tố Hữu, Nguyễn Ðình Thi, và cũng không làm thơ theo "Ðơn Ðặt hàng" của Hội Nhà Văn của đảng (Cọng Sản). Bởi vậy, ngoài những nhà thơ và người ái mộ thơ ?chơi thởvới nhau, thơ của họ không được phổ biến rộng rãi và những Hội Thơ (Tao Ðàn) của họ, đối với ?Bác và Ðảng? đều ?phi pháp?. Họ phải hoạt động âm thầm, nhiều người không biết tới, nhất là ?người nước ngoàỉ, ?người có quốc tịch nước ngoàỉ thì không chắc biết tới.

?Những thi sĩ âm thầm làm thơ cổ điển hiện nay ở Việt Nam không phải là ít: Lạc Nam, Trương Sư Xuyên, Nam Hà, Vọng Chi (tức Thái Can, thi sĩ, bác sĩ, đã đi Pháp), Vũ Khắc Văn (Trác Ngọc), Trúc Khê (mới, không phải Trúc Khê Ngô văn Triện, cũ) Trúc Phong (đã đi Pháp), Trình Xuyền, Thu Vân (nữ), bà Song Hường, bà Mỹ Linh, Liên Huê (nữ), Trương Duy Hy (có lẽ đã qua Mỹ theo chương trình HO), Tuyết Ngọc, Toại Khang, Ðan Phượng, Hành Sơn Lưu Vĩnh Thuật (đã qua đời), Vũ Hân (đã qua đời) Chính Hà (cháu 7 đời Ôn như hầu Nguyễn Gia Thiều), Thường Quân Vĩnh Mạnh, Hoàng Vũ ... Họ còn sống ở khắp cả ba miền Trung, Nam, Bắc và sinh hoạt trong các hội thơ như Thạch Ðộng Tao Ðàn, Hồng Ðô Thi Các, Tao Ðàn Thái Hòa ...

?Ðể tránh sự theo dõi, chú ý và có thể bắt giữ của chính quyền Cọng Sản Việt Nam, họ sinh hoạt không thường xuyên. Theo Hoàng Vũ, buổi họp thơ cuối cùng của ông trước khi trốn khỏi nước là vào năm 1988, tại Saigon, tại nhà của Thường Quân Vĩnh Mạnh, có Lạc Nam, Chính Hà (từ Bắc vào dự) và có cả Tô Kiều Ngân, nữ sĩ Cao Mỵ Nhân, mới tù "cải tạo" về.

?Năm 1989, sau khi đến Bidong một thời gian ngắn, Hoàng Vũ thành lập ở đó nhóm "Thi Bút Bidong", tổ chức nhiều buổi nói chuyện thơ. Chủ tọa là Hoàng Vũ, người điều khiển chương trình rất khéo là Trịnh Hí Phùng. Nghe thông báo, tôi có đến nghe và rất ngạc nhiên trước nét chữ Nho bay bướm của Hoàng Vũ. Ông ta viết được cả 2 loại: viết thảo và chân phương. Với loại nào, ông cũng tỏ ra là người tài hoa.

Cách đây ít lâu, nói chuyện với một người cháu ngoại Cụ Ðốc Hy, tôi nói rằng đọc thơ Cụ, tôi có cảm tưởng như đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến: Bình dị, đơn giản, cảnh sắc rất Việt Nam. Tôi tìm đọc vài bài:


Qua Ðèo Ngang

Hai mươi năm trước có qua đây
Cảnh ấy không hay đến nỗi này
Nửa tấm bia tàn rêu lẫn mốc (*)
Một gian cổng cũ cỏ liền cây
Hỏi ai Nam, Bắc khi qua lại
Có xót dâu cồn chuyện đổi thay
Sực nhớ công người xây đắp trước
Giọt châu tầm tả chéo khăn dầy.

(*) Tấm bia vua Minh Mạng đề: ?Thiên hạ đệ nhất hùng quan?.

Ðối chiếu với bài "Qua Ðèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan. Lòng ?hoài cổ? ? ?Có xót dâu cồn chuyện đổi thaỷ, - Dâu cồn là chuyện tang thương đấy ? Biển xanh hóa hành ruộng dâu trong câu nói của Bà Nữ Oa - , buồn vì thời gian trôi chảy - Nửa tấm bia tàn rêu lẫn mốc - trong thơ Cụ, nói lên nỗi đau vì thế sự.

Qua đèo Ngang

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước, đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà, mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Cùng một cảnh sắc, hai tâm hồn, cùng tâm sự người mất nước: Tâm trạng ?hoài Lể của người đàn bà và tâm trạng nước mất nhà tan vào tay thực dân Pháp của Cụ Ðốc Hy. Hình ảnh, màu sắc ngôn ngữ bình dị, rất Việt Nam. Một người có tên trong Văn Học Sử, trong chương trình giáo dục, một người bị? bỏ quên.

Phụ lục: Qua Ðèo Ngang (bài thứ hai của Kỉnh Chỉ)

Ngàn tầm cao ngất ải xưa đây
Mấy độ trèo leo đến nỗi nầy
Mở mắt buồn trông cùng mặt bể
Huơ tay giận xé toác đầu mây
Thuyền ngư cập bến trăng mờ bóng
Chim mỏi về rừng gió lạnh cây
Bảy dặm quanh co qua khỏi đó
Xanh tươi thấy núi Ngũ-Hành ngay

1928

Miền Trung là miền của bão lụt. Xứ sở lắm nghèo nhiều đói, vậy mà mỗi năm gánh thêm vài ba trận bão lụt, khổ sở dân tình biết bao nhiêu. Cảnh ấy là Cụ Ðốc cảm thấỷ

Buồn bão lụt

Ngỡ rằng năm Mão được mùa hung,
Trận lụt năm nay lớn lạ lùng
Mưa xé mái tranh rơi sạt sạt,
Gió xô vách đất ngã đùng đùng
Ðậu mè lúa bắp rơi tầm bậy
Mèo chó heo gà chạy tứ tung
Cao lắm ông trời soi chẳng thấu
Mồ hôi nước mắt của dân cùng
1939

Theo quan điểm thông thường, năm Thìn thường bão to, lụt lớn. Không ngờ năm nay, ông trời làm bão lụt sớm một năm. (Tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ? ). Trước cảnh đau đớn, người Việt Nam thường kêu trời (cầu trời, khấn Phật), nhưng cũng lắm khi ?trời cao không thấủ - Cao lắm ông trời soi chẳng thấu - Cụ Ðốc thường đưa những câu tục ngữ bình dị vào thơ. Nếu nói ?sống với nhân dân?, ?đi với nhân dân? thì người đó chính là ?người thơ Cụ Ðốc Hỷ vậy.

Một cái nhìn khác, một nhà thơ Việt Nam khác, với bài thơ ?Nước Lụt Hỏi Thăm Bạn? (Nguyễn Khuyến)


Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu,
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con rày lớn, bé?
Vài gian nếp cái ngập nông, sâu?
Phận thua, suy tính càng thêm thiệt,
Tuổi cả, chơi bời hóa sống lâu.
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu.

Phụ lục (Bài đọc thêm)



Thu Ðông bão lụt

Thường thường đến giữa tiết thu đông,
Bão lụt tưng bừng có khổ không
Bùn đọng mưa dầm khoai thúi cả
Mưa giày gió dập lúa tan bông
Ăn đà không khẳm ngày ba bữa
Thuế phải còn lo năm mấy đồng (*)
Ruộng đất nương vườn vô nước cả
Nghĩ mà thương hại cảnh nhà nông.

(*) Thuế "thân" còn gọi thuế đinh, là một thứ thuế đánh vào đầu người, từ 18 đến 60 tuổi, không đánh vào lợi ích. Thời Pháp thuộc, thuế người đánh cao và rất gắt, nhiều người dân không đóng nỗi, phải trốn vào rừng...

Thất thủ Nam Kinh

Nghe nói Nam Kinh Nhật lấy rồi
Trăm năm Trung Quốc thế là thôi
Lâu đài dưới đạn tàu bay thả
Lăng tẩm trong dòng máu nóng sôi
Sẵn vỏ đậu hầm không tốn củi
Có da có thịt chẳng cần nồi
Hơn thua đều cũng người Ðông Á
Sợ lạnh răng vì bởi hở môi.

1937

Xóm giềng sao nở hiếp chi nhau
Ðức hiếp Ba Lan, Nhật hiếp Tàu
Giả dạng văn minh lừa chúng trước
Ra tay tàn bạo giết người sau
Máy bay hơi ngạt khoe mình giỏi
Ðất rộng dân đông ghét họ giàu
Không biết gian thâm là lậm mạt
Trèo càng cao lắm, té càng đau

Ðời Cu ? Ðốc, trãi qua nhiều cuộc chiến tranh, từ Thế Chiến thứ Nhứt (1914-1918 ? Cụ tốt nghiệp ?Y sĩ Ðông Dương? - Medecin Indochinoise - năm 1915), Thế Chiến thứ Hai (1939-45), Pháp Việt chiến tranh (1945-54). Vì tinh thần chống Pháp giành độc lập, cụ từng tham gia công cuộc kháng chiến nầy. Mặc dầu chiến tranh xảy ra ?bên Tâỷ, ?bên Tàủ cũng làm Cụ Ðốc xúc động, ưu tư... ?Sẵn vỏ đậu hầm không tốn củỉ, ?Sợ lạnh răng vì bởi hở môỉ. ?Nồi da nấu thịt?, ?Gian thâm lậm mạt?, ?Trèo cao té đaủ,? Cụ vẫn thường dùng tục ngữ có khi cả điển tích - như trong bài trên - để nói về sự khôn dại ở đời: ?Môi hở răng lạnh? hoặc ?Củ đậu đem nấu đậu, Ðậu trong nồi ngồi khóc, Cùng một gốc sinh ra, Ðốt nhau gì thật gấp. Bài thơ ?Thất bộ thỉ của Tào Thực.

Nhớ Huế

Gần năm năm chẵn, chẳng về kinh
Nhớ cảnh sông Hương, núi Ngự Bình
Nhớ súng Ngọ môn khi rợn sáng
Nhớ chuông Thiên Mụ lúc tàn canh
Nhớ sân Cần Chánh quan đâu cả
Nhớ rạp Thanh Bình khách vắng tanh
Nhớ chị chèo đò, o bán hến
Nhớ bao nhiêu chuyện bấy nhiêu tình.

Ở Cửa Ngăn, gần Ngọ Môn, có 9 cây súng Thần Công để giữ 9 Cửa thành Huế. Nay nước không còn, súng nằm đó chơ vơ khiến Cụ Ðốc nhớ nước khi trời rợn sáng. Chùa ThiênMụ còn đó, chuông Thiên Mụ còn đó, khi hoàng hôn xuống, tiếng chuông chùa còn ngân nga, làm Cụ Ðốc nhớ ?Tổ quốc ta, ta phải nghe trong tiếng chuông Linh Mụ? ? Nguyễn Văn Thích.

Lòng nhớ Huế của Cụ Ðốc, có khác chi ?Thăng Long thành hoài cổ? của Bà Huyện Thanh Quan:

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Ðến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Năm 1954, Cụ Ðốc đi Pháp, thăm thủ đô hoa lệ của nước Pháp. Cụ rất công bằng. Paris nổi tiếng khắp thế giới, Cụ vẫn khen, nhưng rất nhân bản, Cụ không vui khi thấy trong cảnh hoa lệ đó, lại cũng có ăn mày. Cũng mai mỉa đấy, quí vị ạ./


Xem cảnh Ba-Lê

Cảnh Ba-Lê đẹp chẳng đâu tày
Nổi tiếng hoàn cầu tự thuở nay
Vườn thú Vanh-xen voi cọp đủ
Chỗ chơi Công-cọt ngựa xe đầy
Dồi dào hàng hóa nhà Phay-dét
Ðồ sộ lâu đài điện Vẹc-xây
Chỉ có một điều hơi chướng mắt
Ngoài đường thỉnh thoảng gặp ăn mày.

Trời kỳ cụ ở Paris, hội nghị Genève kết thúc, Việt Nam chia đôi ở sông Bến Hải, cầu Hiền Lương là phương tiện đường bộ duy nhứt nối liền hai miền Nam/ Bắc. (Bấy giờ tiến sĩ Phan Văn Thính, con trai Cụ, phục vụ trong ?phái đoàn Quốc Gia Việt Nam?, tham dự Hội nghị ấy). Lằn ranh chia đôi Việt Nam nằm gọn trong tỉnh Quảng Trị. Sự kiện lịch sử trọng đại và đau đớn đó làm Cụ Ðốc thêm nhớ, thêm đau cho quê hương mình.

Nằm nhớ Quảng-Trị

Chân trời mặt bể dặm đường xa,
Tuyết điểm sương tô mái tóc già
Khách Việt chưa từng mùi lữ thứ
Ðất Âu thật lắm vẻ phồn hoa
Vì lòng cố quốc còn cay đắng
Nên chén tha hương ít mặn mà
Quảng-Trị ai về cho nhắn hỏi
Bến Hiền Lương cũ những ai qua.

Sau khi "hòa bình lập lại", Cụ có cơ hội "Về thăm nhà cũ ở Nhan Biều":

Trên đường hương lộ xuống ô-tô
Nhà cũ dè chừng dạo bước vô
Vách cũ gạch vôi nằm lệch lạc
Thềm hư cây cỏ mọc lô xô
Vườn hoang để đó hoa còn nở
Giếng bỏ lâu rồi nước đã khô
Lũ trẻ quên mình là chú bác
Hỏi nhau: ?cụ ấy cụ già mổ?

Câu cuối trong bài thơ của Cụ khiến tôi nhớ ?Hồi hương ngẫu thử của Hạ Tri Chương - thời Thịnh Ðường - bài thơ tôi từng dạy cho học sinh khi giảng về Vương Tường.

Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?

Dịch nghĩa:

(Tuổi trẻ ra đi, già mới về,
Giọng nhà quê vẫn không đổi, râu tóc đã rụng hết.
Trẻ con trng thấy, không nhận ra,
Cười hỏi, khách từ phương nào đến?)

Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê không đổi, tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?

(Phạm Sĩ Vĩ dịch)

Ông Cụ là người rất đa tình. Ðêm nằm không ngủ được, nghe tiếng sáo, nghe tiếng gà, nghĩ tới bóng nhạn bay - có nghĩa là thời gian trôi đi trong vắng lặng, nghĩ tới cái vô nghĩa của danh lợi, nghĩ tới văn chương - cái sẽ tồn tạỉ Cụ nghĩ tới bạn với nhiều điều suy tư, mái tóc Cụ rối bời.

Cái âm thanh làm cho người Việt nhớ nhà là ?tiếng gà?, chúng ta thường gặp trong thi cả từ những bài thơ rất xưa ?Con gà nó gáy o o, Phải thuyền ông Trạng đưa cô tôi về cùng? trong Phạm Công Cúc Hoả cho đến ?Xao xác gà trưa gáy não nùng? của Lưu Trọng Tư.

Ðêm nằm nghe tiếng sáo,
nhớ bạn xưa


Tiếng sáo nhà ai gió thoảng đưa,
Ðêm nghe ríu rít dễ buồn chưa
Một trời tinh đẩu canh gà giục
Ngàn đặm quan hà, bóng nhạn thưa
Danh lợi nhàm người trò bánh vẽ
Văn chương kén khách món hàng xưa
Ai về nhắn bảo cùng ai đó
Mái tóc chàng Phan đã rối bừa.

Tiễn con đi

Mới được sum vầy đã biệt ly
Tiễn con thầy biết dặn con gì?
Tấc lòng ngay thảo cho tròn nhé
Cái bã giàu sang chớ vội chi
Trời biển ấy là ơn tổ quốc
Cõi bờ đâu cũng việc nam nhi
Công thành thân thoái gương kim cổ
Phải tính ngày về tự lúc đi.

Bài nầy rất lạ. Lạ là vì tôi ít thấy trong thi ca, chỉ thấy nhiều nhất là trong ?Tâm Hồn Cao Thượng? (Grand Coeur) của De Amicis. Sự giáo dục trong sách nầy là trong văn hóa Âu Tây, thơ Cụ ở đây là lời giáo huấn của một ông Cụ già rất Việt Nam. Người ta ai cũng mong cho con thành công, hiển đạt, chức trọng quyền cao, chứ không mấy ai khuyên con mau rời nơi ?quyền cao chức trọng?.

"Công thành thân thoái" là câu ít ai nói tới trong thế kỷ 20.

Cuộc tàn sát năm Mậu Thân 1968 là nỗi đau lớn của người Huế. Cụ có những ba bài nói về Huế năm Mậu Thân. Có lẽ lòng cụ đau đớn lắm khi nghĩ tới cựu kinh đô.

Vịnh cảnh Huế
sau biến cố Mậu Thân

Cái họa chiến tranh ai nỡ gây
Cố đô khói lửa tóc tang đầy
Ðền đài trong nội hư nhiều chỗ
Nhà cửa ngoài thành sập cả giây
Hương Thủy thây trôi sông nhuộm máu
Ngự Bình bom dội núi tan cây
Mắt già chan chứa đôi giòng lệ
Khóc cảnh tang thương giữa tết nầy.

1968



Họa thơ Mậu Thân
của Trần Văn Thạnh

Cố đô đâu phải chốn sa trường
Sao lửa binh đầy giữa đế hương
Nghi ngút thành sầu mây đỉnh Ngự
Tưng bừng sóng hận nước sông Hương
Tóc tang chồng chất đều trăm họ
Nhà cửa tiêu điều cả bốn phương
Cảnh Tết Mậu Thân khi nhớ lại
Mắt già khôn ngớt lệ tang thương

1968


Kính họa bài Xuân Mậu Thân cảm tác của
cụ Văn Ðình Tôn Thất Bân

Té ở ngoài mình cũng giống đây
Tết nầy chiến họa thật ghê thay
Dữ dằn lại quá bao lần trước
Chộn rộn chưa rồi mấy bữa nay
Năm khỉ nhiều người đang hú vía
Tuổi hùm các cụ cũng quơ tay (*)
May nhờ trời Phật cho còn sống
Thì hưởng an vui sẽ có ngày
1968

(*) Cụ Văn Ðình và tôi đều tuổi dần

Tôi chỉ trích ra đây, nhận xét sơ lược vài ba bài thơ của Cụ Ðốc Hy. Sự nghiệp văn thơ đồ sộ của Cụ làm tôi hết sức e ngại khi thấy sức lực của mình. Vả lại, tôi là phận con cháu, nghĩ tới Cụ đã sợ - cái sợ bắt đầu từ thuở ấu thơ của tôi, nên cái ngại ngùng đã có, nay lại ngại ngùng hơn. Tôi hy vọng các nhà viết văn học sử, các nhà viết phê bình văn học, các giáo sư dạy môn văn chương, có một nhãn quan sâu hơn, xa hơn về lịch sử văn học nước nhà, không lệch lạc, không thiên kiến, để giới thiệu đầy đủ thi ca Việt Nam cho các thế hệ mai sau. Mình không nói, bọn trẻ làm sao biết.

Ðơn giản chỉ có vây.



Mùa Xuân năm 2022

Hoàng Long Hải



(1) Vụ Nguyễn Bá Chung: Cách nay hơn 10 năm, Nguyễn Bá Chung, giám đốc một chương trình nghiên cứu văn học của người Việt tỵ nạn ở hải ngoại. Y, quê ở An Cựu /Huế, du học Mỹ từ trước 1975, thiên Cộng, mời hai người Cộng Sản, từ trong nước ra đảm nhận công việc nầy. Dĩ nhiên người Việt ở hải ngoạ phản đối, nhất là những người sinh sống ở Boston. Tôi cũng có tham gia. ?Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà thạ? Ai lại dùng người Cộng Sản để nghiên cứu các công tình văn học của người quốc gia - chống Cộng - , trong gtình hình "văn học tỵ nạn" không thể không có lập trường chính trị, nhất là về phía người Cộng Sản, chính trị "ngự trị" trên tất cả mọi lãnh vực. Nguyễn Bá Chung, ngoài những hoạt động thiên Cộng, còn hứa, sau khi y chê bai người Việt di tản là "giá áo túi cơm":


Tôi sẽ về làm người tù tự trói
Mang trên mình những biểu ngữ đầy tên
Ðể được sống một lần trong tự hối
Với những người không biết vẫn thân quen

Y hứa sẽ về phục vụ đất nước, nhưng tới nay vẫn chưa thấy y về. Việt Cộng chưa chia phần hay sao?

(2) Khi Ông Cụ làm giám đốc Bệnh Viện Quảng Trị, tôi chưa đi học, hàng ngày còn đi lang thanh chơi ở con đường trước bệnh viện, mỗi lần thấy bóng Ông Cụ, tôi trốn gấp, trốn một ông quan ? dân chúng gọi Ông Cụ là "Cụ Ðốc" hay "Quan Ðốc", một Ông Cụ nghiêm nghị, cậu mạ tôi còn kính sợ, huống chi tôi. Hình ảnh ông Cụ rất quen thuộc: áo trắng dài may theo kiểu ta, vạt ngắn, quần cháo lòng trắng, giày hạ, che dù trắng. Ðây là trang phục của giới sĩ phu thời ấy. Một lần tôi "đi coi" cụ Huỳnh Thúc Kháng ghé thăm Quảng Trị, tôi cũng thấy Ông Cụ nầy cũng ăn mặc như thế. Hình ảnh hai Ông Cụ giống y nhau.

Hoàng Long Hải

Mục Lục


7. Phở Của Việt Nam Hay Của Tây Của Tàu ?

Phạm hy Sơn






Lời Nói Ðầu : Cách nay mấy tháng nhân đọc một bài báo nói về phở của Việt Nam nay nổi tiếng khắp thế giới là ngon, lôi cuốn khách sành ăn ở Mỹ, ở châu Âu, ở Trung Hoa, Nhật, Úc . . . . Tác giả bài viết còn tìm hiểu về nguồn gốc của Phở từ đâu ra . Người Tàu nói Phở là ?Ngưu Nhục Phấn?, ông Tây nói Phở là ?Pot-Au-Feủvì chữ ?feủđọc lên giống chữ ?phở?. Thấy sang bắt quàng làm họ, ?Phở?đâu có họ hàng gì với mấy thứ đó .

Thử xem Phở có chút mùi vị nào của Ngưu Nhục Phấn, của Pot-Au-Feu ? Lại xem cho kỹ những gia vị Phở như hồi,đinh hương, thảo quả . . . có thứ nào có mặttrong nồi Ngưu Nhục Phấn hay Pot-Au-Feu không ? Rồi trên bàn ăn của Phở có đủcác màu đỏ của ớt, xanh của húng quế, ngò,rau ôm, đen của hồ tiêu không ? Chắc chắn tất cả đều không .

Vậy thì Phở là Phở . Phở có văn hiến riêng của Phở, có bờ cõi riêng từ thuở khai sinh, không liên hệ gì với ai .
Còn một chuyện nữa cũng quan trọng đối với những nhà ?phở học? là Phở xuất phát từ đâu, Nam Ðịnh hay Hà Nội ? Vấn đề còn bàn cãi, chưa ai chịu ai .

Ẩm Thực (hay ăn uống) là nét văn hoá của một dân tộc . Ngày xưa người ta hay nói ? Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật? . Ðó là nói về ăn uống trong khu vực châu Á . Ngày nay ra Âu, Mỹ chúng ta thấy dân tộc Ý có nhiều món ăn nổi tiếng và rất phổ biến trên thế giới như Pizza, Spagetti ......... được cả giới bình dân và giàu có ưa chuộng . Người Tàu, người Ý đi đâu cũng mở các nhà hàng ăn để kinh doanh và làm giàu nhờ di sản ẩm thực của tổ tiên họ, đồng thời quảng bá cho mọi người biết đất nước của họ . Ðó là sức mạnh mềm rất có lợi về kinh tế, về kinh doanh và cả về chính trị (người ta dễ có cảm tình và dễ quen với hàng hoá) .

Cách nay hơn 20 năm tôi được ông Phạm Thăng tặng cho một bản công thức nấu phở từ quê hương ông ở Nam Ðịnh. Mấy hôm vừa qua nhân lục lại tủ sách, tình cờ thấy bản công thức này nên xin phép ông Thăng cho đăng lên báo để những nhà ?phở học? có thêm tài liệu tham khảo và những người muốn kinh doanh về ngành phở có một tài liệu ?chân truyền?để học hỏi.

Phạm hy Sơn



CÔNG THỨC NẤU PHỞ :

- Vật Liệu Cho 100 Tô Phở :

1- Thịt và xương bò : 1O kg xương + 3 kg thịt (*)
2- Tẩy rửa : 150 gr gừng tươi, 2 trái chanh, 1 bát con muối hột, 1 ly rượu đế (nếp) .
3- Gia vị phở : 100 gr đại hồi, 20 trái thảo quả, 20 cái đinh hương, 800 gr gừng tươi, 1 chén cơm bột ngọt, 2/3 chén cơm đường trắng, 100 gr hành củ khô, 100 gr tỏi, 2 muỗng lớn (muỗng múc nước phở) nước mắm thật ngon, muối bột.
4- Rau thơm các loại, hành lá, tiêu ớt, tương đen, tương đỏ . . . .
5- Khoảng 12 kg bánh phở (2 yến)

- Những Công Ðoạn Thực Hiện :
1- Làm xương và thịt
2- Tẩy xương và thịt
3- Nấu nước lèo, luộc thịt, vớt váng (bọt)
4- Chế thuốc phở
5- Pha nước lèo
6- Trình bày tô phở .

1- Làm xương và thịt : Xương nấu phở có thể là xương ống, xương sườn và các loại xương khác . Thịt có thịt chín (thịt đùi, thịt mông. . .) và nạm gầu (loại thịt mềm như thịt thăn) .
Tất cả (xương+thịt) bỏ vào ngâm trong 1 cái thau lớn với : 1 bát cơm muối hột, 75 gr gừng sống (tươi) giã nhỏ, 2 trái tranh vắt nước và bỏ cả vỏ vào . Cho nước lã vừa ngập xương (đã cắt ngắn khoảng 5 hay 6 cm) và thịt, trộn đều cho tan muối rồi ngâm từ 4 đến 6 giờ mới lấy ra lấy bàn chải nylon chải cho sạch cả xương lẫn thịt và xả nước 2, 3 lần cho thật sạch (khi thấy nước không còn đục và ngửi thịt không thấy mùi hôi) là được . Vớt ra 1 cái rổ lớn cho ráo nước .
2- Tẩy xương và thịt chín : Ðun một nồi nước khoảng 10 đến 15 lít cho thật sôi thì ngưng
lửa, đồng thời bỏ 75 gr gừng tươi giã nhỏ + 1 ly rượu trắng xong nhúng cả xương và thịt vào ngâm chừng 10 đến 20 phút vớt ra chải lại và xả nước cho thật sạch . Vớt ra thau, những đường gân máu ở xương ống và xương lớn, lấy dao bằm nát những đường gân máu ấy.
Ðem chải, rửa lại cho máu đọng ra hết để sau này nấu nước sẽ trong hơn và bớt bọt .
3- Nấu nước lèo, vớt bọt, luộc thịt chín : cho 10 kg xương + 3 kg thịt sẽ nấu 50 lít nước (lèo) . Ðun 50 lít nước cho thật sôi thì bỏ 10 kg xương vô trước, 3 kg thịt vô sau phía trên xương . Ðun lửa vừa phải, không lớn để bọt đóng trên mặt nước . Khi bọt đóng dày thì dùng vợt lưới vớt hết bọt ra . Nhớ làm nhẹ nhàng để bọt không vỡ ra làm đục nước và cũng không đun lửa lớn làm bọt bị vỡ .
Vớt bọt xong thì :
- Cho muối bột vô nếm hơi mặn một chút để khi cho bánh phở vào là vừa ăn .
- Cho 800 gr gừng nướng rửa sạch, lột bỏ vỏ, thái dọc củ dày 3 hay 4 mm .
- Cho túi thuốc phở (1 muỗng cà phê đầy là đủ) ? cách chế thuốc phở sẽ nói ở mục 4
dưới đây . Tất cả các thứ trên phải bỏ đầy đủ vào nồi hầm xương và thịt không thể quên được .
Thịt luộc chín phải luộc từ 3 tiếng rưỡi đến 4 tiếng rưỡi đồng hồ (** )mới vớt ra để thịt mềm không dai . Ăn thua thử thế nào cho vừa (sống thì dai không nhai được, dừ quá thì mềm không thái thành miếng được) . Khi vớt thịt ra phải nhúng vào nước lạnh treo lên cho ráo nước rồi bỏ vào tủ lạnh cho không bị đen . Khi nào pha nước lèo xong xuôi cho thịt vào luộc lại chừng 10 phút để thịt ngấm gia vị .
Khi thịt vớt ra rồi cứ để xương trong nồi hầm từ 10 đến 12 tiếng thì xương sẽ nhừ và long các khớp xương ra, thịt bám xung quanh xương mềm nhũn và có một số lượng xí quách thật ngon để nhậu bia . Nấu tới thời điểm này nước mới ngọt .
4- Thuốc phở : -100 gr đại hồi - 20 trái thảo quả - 20 cái hoa đinh hương .
Ðại hồi bóp cho rụng hết cánh, thảo quả nướng cháy vỏ, mang ra bỏ vỏ và xác, chỉ lấy hột thôi (vỏ và xác thảo quả ăn vô sẽ bị say) . Ðinh hương để nguyên .
Ðem tất cả 3 thứ sao lên cho hơi cháy và bốc mùi thơm thì đem giã thành bột bỏ vào lọ nhỏ có nắp đạy kín hơi để xài dần dần .
Với số lượng xương và thịt trên chỉ cần một muỗng cà phê đầy là đủ . Bỏ thuốc vào túi vải có dây thắt lại rồi bỏ vào nồi nấu nước xương và thịt đã vớt bọt khoảng sau 15 phút thấy có mùi thơm của phở thì phải lấy túi thuốc ra ngay .
5- Pha nước lèo : Khi xương đã đun xong (tức là từ lúc mới nấu đến khi lấy ra là trên 10 giờ và xương đã nhừ) . Gạn nước ra một nồi khác để pha chế .
Trong việc pha chế gồm có :
- Bột ngọt : 1 chén ăn cơm đầy .
- Tỏi 100gr bóc vỏ, để nguyên bỏ vào 1 túi vải .
- Cho 2 muỗng lớn(múc nước phở) nước mắm thật ngon, nước mắm dở thì không nên
bỏ . Nêm nếm cho hơi mặn 1 chút để bỏ bánh phở vào thì vừa .
Tất cả các thứ kể trên bỏ vào nồi nước lèo pha bán, khi gần bán mới pha . Nồi nước lèo
chỉ có : muối, gừng nướng, tỏi, thuốc phở . Không được cho gì thêm vì cho gia vị trước
sẽ bị thiu . Nước lèo có thể chia bán 2 ngày nhưng lúc nào cũng phải để lửa nóng ấm,
đừng để nguội sẽ bị thiu ngay . (Ngày nay có thể cho vào tủ lạnh) .
6- Trình bày tô phở : Sắp xếp trước các vật dụng sau đây :
-Hành lá thái nhỏ, đừng thái lớn . Loại hành hương lá nhỏ thơm hơn loại hành lá lớn .
-Ngò rí (cilentro) thái nhỏ .
-Hành tây thái mỏng .
-Tiêu xay nhỏ .
4 thứ trên bỏ riêng từng bát (không trộn chung) để khi xong tô phở thì rắc lên trên .
-Rau thơm các loại : Húng quế, ngò gai, rau ôm . . . rửa sạch bày ra đĩa lớn để trên bàn ai muốn ăn thứ gì lấy thứ đó .
-Tương đen tương đỏ )chỉ có người Nam, Trung thích dùng, người Bắc không dùng nhưng hợp tương ớt Bắc và tỏi muối .
Nhúng bánh phở phải nước thật sôi bánh mới hết chất hôi . Nhúng kỹ và lắc sóc cho ráo nước mới đổ vào tô . Ðổ vào tô xong lấy đũa xới lên cho đều để bánh khỏi dính vào nhau thành từng cục . Sau đó đặt thịt (chín, nạm, gầu . . . đã thái mỏng và lớn để riêng ra các tô) . Thịt tái cũng thái thật mỏng và lớn ra một tô riêng . Thịt tái nhỏ quá không thái thành miếng được thì băm nhuyễn lấy dao ép xuống thớt rồi bỏ lên trên bánh phở . Tiếp theo là rắc hành tây và hành lá đã thái mỏng, sau cùng là ngò trên cùng .
Nếu là phở tái, nước lèo phải đổ đều trên những chỗ có thịt tái, đừng đổ một chỗ thịt sẽ không tái được. (Trước khi đổ nước cần xem nồi nước có thật sôi không rồi hãy đổ ? Phở nguội là dở nhất, nhớ kỹ) . Nước trên mặt bánh và thịt 1 phân (1 cm) là vừa . Trình bày tô phở, tùy theo nhãn quan, thấy đẹp là được .
Nước lèo cạn sẽ mặn phải cho thêm nước đun sôi vô nhưng phải nếm cho vừa miệng như lúc mới pha chế .

Những Ðiều Cần Nhớ :
-Ðừng bao giờ quên gừng nướng, đó là một gia vị tối quan trọng .
-Nhớ bỏ thuốc phở ra đúng lúc, đừng để ngửi thấy mùi thuốc và hồi sặc lên .
-Ðừng quên túi tỏi .
-Ðừng quên vớt váng (bọt) .
-Ðừng quên thứ tự khi làm (lúc nấu phở) .

Làm đúng như vậy thế là phở nhất rồi, không ai nấu hơn mình được .
Nhớ phở bò là bò (đừng trâu hỏng ngay), đừng nấu chung với gà hoặc heo sẽ mất vị thuần túy, thành phở lai căng không tuyệt vời được .
Với lượng thịt trên có được trên 100 tô phở (**) .
Nước khi pha chế bán có thể cho thêm 1 kg củ cải rửa sạch, bổ đôi, thái miếng như khẩu mía cho vô nồi nấu nước lèo cho nước ngọt và có chất rau càng ngon hơn .


Viết ngày 24 tháng 7 năm 1995

PHẠM THĂNG
Công thức Phở Chuyên Nghiệp làng Ðồng
Nam Ðịnh nổi tiếng Bắc Việt .

GHI CHÚ :
* Lượng thịt ông Thăng ghi 3 kg cho 100 tô phở ở trên là số lượng trong thời ?kinh tế bao cấp?. Thời đó nhiều khách đến ăn kêu 1 tô phở ?không người láỉ, tức phở không có thịt .
** Thịt bò vào thời đó ở Việt Nam là thịt bò già không còn kéo cày được, thịt bây giờ mềm không cần nấu lâu như vậy .
Ðiều quan trọng là thịt và xương bò có rất nhiều mỡ chúng ta phải tìm cách loại bỏ để bảo vệ cho khách hàng tránh bệnh tim mạch .

Phạm hy Sơn

Mục Lục


8. Ðọc Tháng Tư Màu Nhớ

Ðặng Xuân Xuyến




ÐỌC ?THÁNG TƯ MÀU NHỚ?

CỦA PHẠM ÐỨC MẠNH

*

Sáng nay, 30 tháng 04.2020, đọc bài thơ TÔI của Phạm Ðức Mạnh, nhà phê bình Nguyễn Xuân Dương đã chia sẻ trên dòng thời gian của ông, tôi còm: ?Cái giá của "chiến thắng" sao mà đắt thế? đau thế??. Tối nay, đọc nhà thơ Phạm Ðức Mạnh trả lời: ?Còn hơn thế Ðặng Xuân Xuyến ạ. Có người may mắn vượt qua, đổi đời. Có người không may mãi chìm ngập trong nỗi đau, cơ cực không thoát ra được.?. Tôi tự hỏi: - Chả có lẽ cái giá của chiến thắng là nhục? Là tội ác? Thế thì phũ quá, mà nói thế cũng chả hẳn đúng, chả nên. Tôi không trả lời ông vì tin ông đang đau lắm, đang hận cuộc chiến ?chống Mỹ cứu nước? nhiều lắm. Nói đúng hơn, ông đang hận xã hội này với đầy rẫy những bất công, ngang trái, những mảnh đời sống không bằng chết đang hiển hiển trước mắt, đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trong cái xã hội đang dần mất đi những luân thường đạo lý, đang bị ?tiền? - ?quyền? và ?côn đồ? khuynh đảo.

Chiều, đọc bài ?Tháng Tư màu nhớ? của ông, tôi đã còm: ?Những câu thơ như cứa vào tim người đọc!?. Và rất nhanh ông trả lời: ?Ðể ta luôn nhắc mình đừng quên quá khứ, đừng bao giờ mất cảnh giác, thỏa hiệp,... Ðặng Xuân Xuyến?. Rất tác phong người lính: nhanh và thẳng. Tôi cũng qua đời lính, cũng đã từng cầm súng giữ biên cương, đối diện với giặc Tàu (dù chỉ vài tháng) nên thích sự thẳng thắn, dứt khoát, mau lẹ trong hành xử (trả lời bạn facebook bình luận) của ông.

Ðến giờ, tôi vẫn bị ám ảnh những hình ảnh người lính sau cuộc chiến bị chế độ phụ bạc, bỏ rơi như ông đã khắc họa trong ?Tháng Tư màu nhớ?: Phũ, mà đau, nhưng oái oăm lại đúng, chả ai phản bác được vì đó là những lát cắt của cuộc sống đang diễn ra và chưa biết đến lúc nào sẽ kết thúc:

Tháng Tư

những người lính kiệt sức vì đạn bom

thoi thóp sống

lết tìm nhau

nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất

hàn rỉ sét chiến tranh

bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội

câu: ?bó vết thương lòng kiếm tìm đồng độỉ đau và đắt quá. Tôi ngẩn người với suy nghĩ có phần ngờ nghệch: Sao người ta cứ rầm rộ tổ chức những lễ kỷ niệm ?ngày chiến thắng?, ?ngày giải phóng? làm gì nhỉ? Giá người ta hiểu được nỗi đau bị bỏ rơi, bị phụ bạc của những người lính sau cuộc chiến: ?bó vết thương lòng kiếm tìm đồng độỉ, để giảm bớt những ngợi ca chiến thắng, những chúc tụng làm tứa máu hàng triệu con tim người Việt không chỉ một thời ở phía bên kia chiến tuyến thì hay biết bao.

Vâng. Những người lính ?thoi thóp sống / lết tìm nhaủ không chỉ để ?nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất / hàn rỉ sét chiến tranh? mà còn ?bó vết thương lòng kiếm tìm đồng độỉ để an ủi phần hồn của những người đã nằm xuống. Tuy không hẳn tất cả đều vậy nhưng những hình ảnh như thế lại khá phổ biển thì đau và đáng hận lắm chứ?!

Khi đọc những câu thơ: ?mẹ thắt ruột chờ con / nỗi đau tê dại / hình viên đạn chẻ đôi găm xé vào tim mẹ / đứa bên này / đứa bên kia / hết đối đầu chĩa súng vào nhau / sao lặng lẽ không về?, tôi lặng người nhớ tới những câu thơ tài hoa của nhà thơ Chử Văn Long: ?Mùa xuân về trên mộ hai người lính / Một phía bên kia, một phía bên này / Những ngọn cỏ gà bò lan chầm chậm / Như những bàn tay tìm gặp bàn taỵ? (Xuân về trên mộ hai người lính - Chử Văn Long). Tôi giật mình với suy nghĩ: Chiến tranh, mãi mãi chỉ những người dân, người lính mới thấm thía tội ác của chiến tranh bởi chỉ họ mới là những người phải trả giá, phải chịu mất mát, hy sinh vì thế dù ?thắng? hay ?thuả thì họ vẫn là những người bị mất mát, đau khổ nên thơ của những người dân, người lính mới đau với nỗi đau của tình người, của nhân tình thế thái.

Vâng. Cuộc chiến ?huynh đệ tương tàn? đã kết thúc 45 năm nhưng hệ lụy của cuộc chiến ?nhồi da xáo thịt? có lẽ còn nhức nhối rất lâu.

--------------------------------

THÁNG TƯ MÀU NHỚ



Tháng Tư
đất trời rợp sắc đỏ
cờ
hoa
tiếng khóc vỡ òa màu nhớ
người qua cõi chết trở về
nổ bung nụ cười chiến thắng
non sông một dải nối liền

Tháng Tư
những người lính kiệt sức vì đạn bom
thoi thóp sống
lết tìm nhau
nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất
hàn rỉ sét chiến tranh
bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội

Tháng Tư
ký ức dâng tràn
mẹ thắt ruột chờ con
nỗi đau tê dại
hình viên đạn chẻ đôi găm xé vào tim mẹ
đứa bên này
đứa bên kia
hết đối đầu chĩa súng vào nhau
sao lặng lẽ không về

Trắng hồn khăn tang
kiếp phong trần bày lên niết bàn lạnh lẽo
mẹ thắp nén hương đắng đời sinh nở
dằn cơn vật vã cô đơn
húp cháo
chờ được phong danh hiệu

Tháng Tư
những ngôi biệt thự nguy nga
phơi quyền lực
giàu sang trước phố
ẩn náu gam xấu hổ
người qua vội bước chân xa

Tháng Tư
mùa tha thứ cho nhau
nhìn từ nhiều phía
hạnh phúc
khổ đau
ai muốn quên
ai hoài nhớ

Người lính
bị nhuốm chất độc da cam
ngâm đời trong bể khổ
làm sao gieo hạt tương lai

Ngày
sống ngồi niệm được thua
nuôi ký ức

Ðêm
tập chết mơ chốn vô thường
chuông hồn
ru giấc thời gian cũng ám ảnh
giật mình?
*.

27.04.2020

Phạm Ðức Mạnh

*.

Hà Nội, 20g35 ngày 30.04.2020


Ðặng Xuân Xuyến

Mục Lục


9. Những Cuộc Phỏng Vấn.

Trần Thị Hiếu Thảo




1.Ðược biết HT với tư cách một người làm thơ, một bạn thơ của Vân Hà. Nguyên nhân nào HT lại viết văn và trở thành nhà văn. Bạn thử chia sẻ cho mình và các bạn đọc hôm nay cần biết vài điều nha.

Thank you so much. Ðược bạn thơ, và một người đầy đủ kinh nghiệm hiểu biết về thơ văn ?để ý tớỉ mà lấy làm phỏng vấn riêng. HT cho là một hân hạnh, một hạnh phúc trong đời sáng tác chứ. Phải nói là ?Rất là chính xác như vậy đó.? Bạn phỏng vấn mình thì xin trả lời đâỷ Thật sự mà nói trái tim dành cho thơ ca cũng rất gần đối với văn chương đấy thôi bạn ạ.
Và thật sự mà nói mình từ nhỏ vẫn yêu thích văn chương thơ ca, nhưng mà Thảo luôn nghĩ trước tiên mong ước đi học để có tri thức, và rèn luyện để trở nên nhà giáo, tức dạy học giỏi, hoặc nhà luật sư tài ba công chính, hoặc nhà chính khách một lòng thương dân mến nước. v.v? Ôi mơ ước ban đầu thì dễ thương, nhiều lắm. Nhưng ở đời thiên hạ thường nói ?Ước mơ đi đến cho chúng ta và được trùng khớp. Ngược lại ước mơ không đi đến cho chúng ta, và có thể bị lệch khớp, hoặc trớ trêu đổi khác v.v? Hai câu nói đó không có gì sai, cũng không thể là - Không đúng hết hoàn toàn. Vì hiển nhiên có những ước mơ dẫn cho họ đi tới thành công mỹ mãn, nhưng có nhưng ước mơ bẻ gãy, đoạn lìa, hủy tán, tạo cho con người có những khúc quanh, rẽ ngang của định số khác? Mình thì hỏng và mất nhiều ở câu vế thứ nhất. Nên mình đành quay về chọn viết văn để gởi vào ý tưởng, khai thác những gì mình thương yêu, tha thiết nhất? Hơn nữa nghề viết văn quá ư tự do, không bị ràng buộc. Không bị ai tước bỏ hay cấm cứ. Dù cây viết mình có tài ba lỗi lạc, hay tầm thường tàm tạm, hoặc giả mình viết thế nào? Hay, dở. OK - Ðược chấp nhận, không chấp nhận v.v?? Viết hay và giỏi là một chuyện khác, qua một thế hệ đánh giá hoặc nhiều thế hệ nối tiếp phân định. Tuy nhiên nó không bị trừng phạt và triệt tiêu ngay từ đầu như một nghề khác với cá nhân mình, là vui rồi.

2. VH OK hiểu. Còn nghề văn cần nhất là chuyện gì? Nhìn thấy biết, nhận thức, sáng tạo, trải nghiệm v.v? Theo HT nghĩ và phân tích thử.

Theo mình nghĩ viết văn cần nhất là phải biết nhận thức rung động và sáng tạo kết hợp. Cái rung động cần nhất trong tim thông qua duy tư nhận thức? Nhưng cái sáng tạo cũng là điểm then chốt, cốt lõi, thiên ý nhất, quyết định nhất. Biết rung động mà ghi chép, nhận thức đơn giản khô khan, thì không thể có danh từ ?nhà văn.? Mà nhà văn nghĩa là đi đôi với sáng tạo, nảy nở óc sáng tạo, làm điều, gây được hấp lực của sáng tạo. Ðiều cần đó quan trọng đến chừng nào? Phải khác hơn một nhân vật bình thường (phải khác hơn phó thường dân chứ). Bởi vì ghi chép tất cả, những ai ai bỏ thì giờ vẫn ghi chép lại được mà. Còn nhà văn tự nhận lấy trách nhiệm cao cả hơn, lạ lẫm hơn chứ. Bởi mình khả năng làm được, chỉ mình mà thôi. ( Mình không phải nói riêng là Thảo, mà là chỉ danh xưng toàn bộ cho cá nhân nhà văn.) Chỉ có một số người thượng đế cho họ làm được mà thôi. Và theo mình nghĩ trải nghiệm là một điều khá cần thiết, cũng là ? những thứ chất liệu quý.? Là vì có trải nghiệm câu văn sẵn sàng có xương sống và có linh hồn ngay.

Thảo ví dụ như Thảo từng đi bộ từ rẫy rừng về nhà anh chị. (Lúc ở Bào Lâm Hòa Hưng trong Nam) đi với người yêu sau này là chồng mình. Là Thảo viết một tác phẩm trong Biển Khơỉ Hai người yêu nhau họ đi ở một khung cảnh rất nên thơ, có xe bò đi ngang, mời họ nhưng họ không chịu lên xe để cùng. Họ thích đi bộ chỉ có hai người, thậm chí còn muốn đường về còn dài hơn. Nếu không có trải nghiệm làm sao diễn tả được những cảnh vật và những chú bò nhẫn nại bước đi lên xuống những dốc, quanh quẹo đáng thương kia. Hoặc một tác phẩm khác GMSS. Cảnh chòi trại nằm giữa những ruộng bậc thang vào một hoàng hôn? Hương rừng của thị đưa hương? Từ nhỏ Thảo đã đến nơi này. Và trong tác phẩm tình yêu đó, xong 12. Thảo ghé đến theo ?lịnh bả đi lên đuổi chim ăn thóc vào lúc lúa mới trổ đòng. Và quen người con trai công nhân đó. Cách ăn mặc phục sức giản dị, nhưng ưa đi guốc thì đó là những gì chính bản thân mình trải nghiệm và dựa vào văn chương cho phép, từ ngữ rộng mở hơn? Cấu trúc truyện lại khác hơn thật thế thôi. Hoặc tỉ dụ lúc Thảo sắp có đứa con thứ, đã mang bầu ba tháng đi rèn cuốc rèn rựa để làm rẫy, nhưng anh chủ thợ rèn tên Phú Tự tự xưng là cũng quê mình. Anh rất là phong độ to con đẹp trai, lại giàu có, khá tiền bạc hơn chồng mình. Muốn trêu ghẹo cua mình. Sau đó anh giả vờ cuốc rựa làm xong đem vào nhà mình để đưa, tán tỉnh mình? (Tất nhiên là mình không chịu rồị) Nhưng chồng mình về nghe kể, anh ghen lên. Hoặc nhà mình qua cái bàu lớn, mùa nước dâng cao dân làng đang sống bên kiả Các anh từ Gò Vấp SG xuống đi săn, muốn qua bàu gởi xe gắn máy nơi trước hiên nhà mình. Khi chồng mình đi làm thợ xây về, ảnh thấy xe họ gởi, ảnh la lên, ảnh hờn và giận nhiều nữa. Thế là lần khác Thảo hết cho họ gởi. Nếu không có trải nghiệm bị chồng la rầy cấm cản, nghiêm đe, bực tức đó? Thì mình e rằng câu văn mình viết kém sinh động bằng, trong những tác phẩm có hình ảnh đó. Hoặc có một lần mưa dột xuống nhà, nhà nghèo bị ướt át. Ảnh buồn tự khiến nói ra câu nói:
- Nếu anh biết lấy vợ khổ thế này anh không đời nào lấy vợ, để khổ? Ôi ảnh nói làm mình giật mình hốt hoảng khóc to, và rồi thít thít khóc. Ảnh sau đó dỗ dành? Nhưng mà không có trải nghiệm thì không có tình tiết đó cho một tác phẩm ?Chân Trời Mớỉ mà mình đặt trên vai để viết cho một cặp đôi từ miền đất xa lạ Trung Mỹ? Anh ta nói ra câu nói đó trong một hoàn cảnh khắt khe tương tự với vợ như vậy. Nhưng anh ta cũng thương vợ rất nhiều. Sau này anh bị chết đi bất đắc kỳ tử? Và rồi người vợ theo giấc mơ chiêm bao anh bảo. Cô đã dẫn con đi di dân sang Mỹ, sau này đứa con gái thành tài đoạt giải nhì thể thao ở thế vận hội Mỹ. ( Họ có đứa con trai đầu lòng cùng chết với anh rồi, khi đi làm rẫy té dốc.) Thật sự mà nói hầu hết các tác phẩm được thừa nhận đọc gây xúc động, vì họ sáng tạo quy mô, nhưng họ dựa trên một phần đời của họ có, dù cho rằng rất nhỏ của họ, trong đó dẫn vào.
3. Vâng Thank Thảo cho biết một trải nghiệm lớn hình thành tác phẩm cũng như nói óc sáng tạo cần có. Và xin Thảo thường viết tp thể loại gì, đề cập những chuyện gì?

Thật sự mà nói Thảo thường có triển khai phong cách viết về bối cảnh, đời sống xã hội, con người ở một thời kỳ nào đó nhất định. Những tiêu biểu của con người họ, trong một góc nhìn xảy ra và phải có. Phải để tiêu biểu viết lên, tạo một sự nhấn mạnh và phổ quát của bức tranh đó. Thường Thảo lồng tình yêu ?Cặp đôi, cặp ba trong tác phẩm đó.? Giống như bài ca phải có điệp khúc, mới thấy cao trào, mới nhìn được hơn cái hay, và cái đủ phấn khích hơn? Tuy nhiên đề tài viết nhiều tác phẩm, thì phải xu hướng, chủ đề phải khai thác nhiều góc độ hơn. Viết cho tuổi học sinh, viết cho tuổi mới lớn, mới trưởng thành, và viết cho những trang có vẻ tính cách thiếu nhi, ưa học hỏi khám phá v.v? Và ngay cả các trang sách người lớn hoàn toàn, cũng dành những đoạn mô tả tính cách trẻ thơ dễ thương của thiếu nhi, vai trò con cái, ước muốn của chúng v.v? Theo Thảo nghĩ một tác phẩm là một bức tranh xã hội thu nhỏ, thì cần có nhiều loại hình xuất hiện, có nhiều giai cấp, và đủ thành phần, đủ lứa tuổi, nếu cần sử dụng phải có mặt, thì đọc nó có ?pha trộn? nhiều chủ đề, nhiều nội dung, nhiều ý tưởng, đọc nghe sẽ không bị chán và có thể thích thú hơn, sâu sắc hơn, đậm chất hơn. Và cũng tùy tác phẩm, với chủ đích mình ?nhà văn? thiên ý gây dựng? Và cách Thảo viết là thường tiểu thuyết đặc sệt, có pha chất hồi ký, có nhiều phóng sự tường trình trong đó. Có thể là một giấc mơ được kể lại hoàn toàn của tác phẩm lớn, đôi khi và xen lẫn hiện tại, và trộn vào giấc mơ quá khứ? Như phim ảnh giấc mơ có tỉ lệ, có bố cục tham dự act, để tác động... Mình đeo đuổi có nhiều chương như vậỷ

4. OKe. Ý tưởng Good đó Thảo. Thảo hay thường đọc sách nhiều không? Loại sách gì? Và yêu thương tác phẩm nào cho là thần tượng trong quá trình đọc sách. Có thể chia sẻ ở đây VH, và bạn đọc nghe chút chứ?
Thật sự mà nói, Thảo đọc sách không nhiều lắm nhưng cũng không thể gọi là ít. Thường Thảo đọc tất cả các thể loại được viết thành sách, nhưng chủ yếu đọc tiểu thuyết lớn hơn. Vì không có times, chứ Thảo rất là siêng đọc sách, nhất là những sách được nổi tiếng hoặc đã từng có nhiều giải thưởng, hoặc được từng ca tụng, khen ngợi v.v.. Ngày trước Thảo đọc sách của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn của Khái Hưng qua Nửa Chừng Xuân, Ðoạn Tuyệt của Nhất Linh, Gánh Hàng Hoa của Khái Hưng và Nhất Linh. Sau đó một chút, Thảo đọc Số Ðỏ của Vũ Trọng Phụng, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. (Chí Phèo của Nam Cao tất nhiên đọc và học nhiều, khi còn ngồi ở lớp 12 trung học thời ấy rồị) Tất nhiên thời đó nhóm Tự Lực Văn Ðoàn và của Vũ Trọng Phụng văn họ đang trong quá trình thanh trừng xét lại, và bị coi như ?niêm phong.?
Cùng thời đó Thảo có đọc Chiến Tranh và Hòa Bình của Lev Nikolayevich Tolstoy. Thép Ðã Tôi Thế Ðấy của NikolaiA. Ostrovsky. Mùa Tôm của Thakazhi Sivasankara Pillai Ấn Ðộ. Ðức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông của Sbahattin Ali Thổ Nhĩ Kỳ. X30 phá lưới của Việt Nam Miền Bắc- Ðặng Thanh và một số tác phẩm khác.
Sau này Thảo vẫn ưa thích đọc sách. Qua Mỹ đi làm, nhưng thỉnh thoảng vẫn ham đọc sách văn nổi tiếng: Như Cuốn Theo Chiều Gió của nữ tác giả Margaret Mitchell ngay trên quê hương tại Georgia Atlanta- Mảnh đất nơi mình đang sống này. Hoặc đọc Giã Từ Vũ Khí- Tiếng Anh là ?A Farewell to Arms? của nhà văn Mỹ Ernest Heming way- Nhà văn đoạt giải văn chương 1954. Và tác phẩm Trăm Năm Cô Ðơn của Nhà văn Gabriel Garcia Márquez người Columbia- Châu Mỹ Latinh được giải nobel 1982. Thật sự Trăm năm cô đơn viết trong một thế giới hãi hùng và nghiệt ngã, những nhân vật có và phi thực, sự pha trộn giữa thực tế và tưởng tượng phi thường. Sự pha trộn giữa những yếu tố hiện thực và giả tưởng trong tiểu thuyết, để diễn tả giá trị thẩm mỹ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo nơi văn học. Nhưng văn rất hay, cấu trúc lạ, nhưng đọc ?hơi thở văn chương? lại gần gũi, tác phẩm mang nhiều đậm chất vị kỷ, và già dặn, hiểu đời sâu của nhà văn. Sức tưởng tượng của nhà văn quá kỳ vĩ, thiên tàỉ Tuy nhiên mình vẫn yêu tác phẩm Giã Từ Vũ Khí và Cuốn Theo Chiều Gió nhiều hơn. Vì mình đọc rất xúc động hơn. Ðặc biệt là ?Cuốn Theo Chiều Gió? nhân vật mình rất là yêu thích nhất, là Scarlett.
Nói thì nói thế thôi. Văn chương Thảo không coi mô típ nào là chủ đạo, chủ đề nào là ?lý tưởng? trong thâm tâm mình cả, vì mỗi người viết hay riêng, tuyệt vời riêng, có một lối đi xuất sắc riêng của họ. Và cũng tùy theo thời gian nhu cầu. Ví dụ như ngày trước mình thích văn Khái Hưng nhưng càng về sau thích lối hành văn của Vũ Trọng Phụng và cả cốt truyện của Vũ Trọng Phụng hơn. Cũng như mình thích truyện và Hồ Bửu Chánh. Nhưng sau đó vẫn thích truyện văn của Bình Nguyên Lộc viết điệu văn mới mẻ hơn một chút. Sau này mình có tìm đọc vài truyện của Bà Tùng Long rồi đến Duyên Anh đến Nguyễn Thụy Long, Người Khăn Trắng, Chu Tử của miền Nam. Thấy họ viết đều hay cả. ( Mỗi người có một giọng điệu văn tân hơn, nhưng vẫn khác nhau hoàn toàn. Cả một guồng máy chính trị xã hội đi qua, đã cho con người phong phú với những góc nhìn khác nhau. Nguyễn Thùy Long với ?Loan Mắt Nhung? mình rất cảm động nhân Vật Xuân, cô gái lỡ chân chốn giang hồ nhưng có một tâm hồn trong trắng, tính cách rất dễ thương, biết cảm thông, giàu nết hy sinh. Thật sự mà nói Thanh Nga đóng rất nhiều vai ở Ðiện Ảnh, và Cải lương miền NamVN. Nhưng cái Vai Xuân trong Loan Mắt Nhung thật sự làm mình thương, và ám ảnh nhất ở sự nghiệp cô ta. Không có biết ai như mình không? Mình thương cái vai đó ghê luôn. Coi xong bộ phim thương xót cô ta cả tuần chưa nguôi. Vì nhân vật cô ta đẹp, mà giản dị, giang hồ nhưng lại hồn nhiên, trong sáng, thơ ngâỷ Và biết hy nhiều quá.

5/ Xin hỏi còn Văn học Trung Quốc hay Ðài Loan bạn có thường đọc không? Như thế nào? Có thể HT cho một vài cảm nghĩ đối với dòng văn học hoa lục này?

Thật sự mà nói mình ít đọc truyện Hoa Lục sau này. Mình thường coi phim về xứ sở này nhiều hơn. Ngày trước mình có đọc Qùynh Dao mấy quyển. Cấu trúc nội dung truyện vẫn hay, vẫn gay cấn, hoặc éo le độc đáo. Nhưng mà về mặt văn chương, thì khác hơn. Mình mê, ?bị quyến rũ mình hơn?, bằng văn học Tây Phương, Pháp, Anh, Mỹ, hoặc sau này châu Mỹ latinh. Nói thiệt vậy đó nha. À Sau này có Mạc Ngôn đạt giải nobel 2012. Thảo có đọc một đoạn văn rất hay, cũng quyến rũ thu hút lắm, nhưng rồi bận rộn, phải bỏ qua chưa đọc lại. Nhưng đã coi qua phim rồi. Thật sự mình mê điện ảnh song song với văn học, tuy hai thể loại, sẽ có giống và khác nhau đấy chứ. Vâng! Ðúng là mình còn mê hơn cả văn học, khi thưởng thức nhân vật qua điện ảnh. VH ơỉ

6. VH OK: Thanks Thảo đã kể chuyện như trần thuật và cho biết nhiều. Trở lại câu hỏi cho văn học văn chương nè. H.Thảo có sở trường viết như thế nào khi tạo một tác phẩm. Làm sao để có một tác phẩm mà viết.
Theo H.Thảo thì một tác phẩm được chia ra ba phần. Vậy Phần đưa vào truyện ban đầu, phần diễn tiến, và phần kết thúc. Theo H.Thảo phần nào khó nhất?

Thật sự mà nói mình viết văn không theo quy tắc nào cả. Nghĩa là mình không phải làm này làm nọ theo một mô hình chuẩn nào, cứng nhắc nào cả. Ý nói là mình thoải mái, không cần lên gân và ?bắt buộc? chi cả. Mình tự do cảm xúc, tự do nhìn thế giới quan, tự do nhìn sự việc hay con người nào đó, rồi mà tác động, làm rung động vào tim. Rồi tự nó như vết loang? thả lỏng với cảm xúc dâng trào, tự đi đến mạnh mẽ. Cứ tự nhiên nhiều cảm xúc, nhiều nguồn ập về cộng hợp lại, tự nhiên nó hình thành mạnh mẽ, xây dựng lên những một định ý- thiên ý riêng. Và từ đó bắt đầu cho chúng ta khai thác định ý đó. Với Thảo thì tập duy tư phân bố trong óc từng khung cảnh, từng diễn biến, thậm chí đến kết thúc luôn, cốt truyện mình tơ tưởng thật sự tới mức như vậy đó. Thảo thí dụ như: Thảo vô tình đi tới nhà một người bạn. Có bức tranh cô gái đạt giải Hoa Hậu ?đẹp ác ý thiệt? được treo, đậu khăn đóng hoặc vương miện chẳng hạn. Thảo cứ nghĩ lẩn quẩn ngay ở đôi mắt mình nhìn. Vậy phải viết về một cô Nàng Hoa Hậu thử coi sao? Tự nhiên về nhà nghĩ thêm ra, trước và sau cô Hoa Hậu phải có gì chứ? Vậy là chạm vào ngày xưa mình có bộ ba ba ?ba cô gái thân nhau như một.? Và phải diễn tả tình tiết, trước và cuộc thi Hoa Hậu đó như thế nào? Phải nhớ đâu ra đó, và thuộc lòng giống như mình từng đọc xong tác phẩm vậy. Quá trình đó lâu mau cũng tùy độ rộng hẹp dài của tác phẩm. Có khi gặp đoạn khó, cũng hóc búa mệt óc lắm, nghĩ mãi nhưng mà giải mã ra được, thắt gút mở được, thì sung sướng lắm, hơn tất cả mọi thứ trên đời còn lại. Thảo nghĩ ai viết văn cũng có tâm trạng này - với những chuyển biến, diễn tiến gay gắt, mới làm nên phong độ và giá trị tác phẩm! Với Thảo tệ nhất phải trên hai tháng mới xong duy tư trong óc. Rồi sau đó duy tư cả câu văn nào mình thích và hay, sẽ cố tạc vào lòng để nhớ. Nếu sợ quên mất đi, ghi ra một đoạn hay đó cũng được. Và cuối cùng dành thời gian khi rảnh ngồi viết ôn tồn. (Tức là bây giờ là đánh trên máy computer.) Viết xong tùy theo tác phẩm ngắn dài, cứ để đó cho nó ?nghỉ rest.? Với Thảo thì đôi lúc chưa sửa xong tác phẩm thứ nhất nhưng cũng có khi bắt gặp một cảm xúc mới- cho tác phẩm thứ hai, tác phẩm khác. Kệ cứ vui lập trình tác phẩm mới không sao cả? Tâm hồn khai triển nơi tim óc mình nhạy, thì mình vui chấp nhận. Tự nhiên nó có và tự nhiên nó dừng, như óc ta mệt và muốn nghỉ. Khi nó dừng, ta vẫn vui quay lại đọc tác phẩm kia và sửa chữa thêm lại. Ta thư giãn tự nhiên và rồi năng lượng sẽ trở về. Thường một tác phẩm của Thảo mà hoàn chỉnh cả bố cục và văn chương phải là tầm sáu tháng, hoặc hơn nữa. Vì đọc qua đọc lại thấy có thể thêm vô tình tiết, hoặc gọt bỏ đi, hoặc chữa câu văn cho ý nhị hơn, gợi tả hơn v.v? Thảo chưa có tác phẩm nào mà viết trong ba tháng là xong hoàn chỉnh cả. Ðiều này mình nói thật. Tuy nhiên tỷ lệ một năm thì mình viết khá nhiều chứ không phải là ít ỏi gì. Cách viết của mình là như thế, các tác phẩm mình duy tư chồng chéo với nhau, nhưng ngăn nắp đâu ra đó. Thì mình cứ nghĩ như các chủ business xây dựng thường hướng đến nhiều cách lợỉ Họ xây nhiều căn nhà nhiều chốn cùng lúc, nhưng năng xuất vẫn đạt cao hơn, khi mà xây chừng cái một. Nói trắng rả Cứ để cảm xúc mình mới bắt gặp, cảm hứng mới đến, là óc mình rượt đuổi, tạo tác phẩm mới uy nguy, sừng sững để đó như một trò chơi lý thú kỳ lạ. Thế thôỉ Nhưng mình nghĩ cũng rất là năng xuất, nó sẽ tiêu hủy đi sự mệt mỏi, đánh mất sự nhàm chán, và rất là hữu dụng, sự tương hỗ năng lượng, tái tạo năng lượng, rất kỳ cựu. Theo mình là thế đó nữ sĩ VH ơi. Hi hi.
Còn VH nói về tác phẩm ba phần kiả Phần nào cũng có một sự đòi hỏi giá trị riêng của nó VH à. Nhưng thật sự mà nói phần diễn tiến và phần kết thúc mới thấy được tài năng thao lược, chủ đích của tác phẩm. Sự phong phú của tâm hồn được trang trải ắt ở diễn tiến, sự hấp lực của diễn tiến tình tiết, là chiến cuộc của tác phẩm, thành trì và chiến lũy của tác phẩm. Và còn phần kết thúc cũng không thể coi thường được. Phần kết thúc là phần ?để đời của tác phẩm.? Một tác giả viết về một tác phẩm được đánh giá cao ở phần kết truyện. Hay, dở hoặc bình thường. Vì phần kết là sinh mạng, phải nói được nhiều thứ đi về đâu? Chủ đề lớn, là lẽ sống tác phẩm muốn gởi lại ở đó, nhân vật lớn, sự kiện lớn tác động và gởi lại, nó ?lưu gót thụ? Người ta đọc phần kết là để biết tác giả trình độ tới đâu, non kém, thấp yếu, hoặc tuyệt vời, hoặc thiếu hụt bí lối v.v? chẳng đi về đâu, chẳng xứng danh để lãnh hội điều trác tuyệt văn học, cũng sẽ thấy rõ nơi đây.
Còn phần đầu vô là, có được cuốn hút gợi tả hay không? Cũng như khúc đàn dạo đầu. Tuy nhiên không cần nhiều lắm ở mức thái quá, hoặc giục giã quá, lên gân hay lên cốt quá, cũng không thể đưa quá nhiều sự kiện ở đó. Kinh nghiệm Thảo đọc thấy tác phẩm hay, phần đầu họ vô rất giản lược. Một phong thái, một ?thầy nhà nghề? ung dung khiêm tốn, bình tâm, cứ như một hơi thở tự nhiên mà có xúc động? Ðừng quá hô hào tuôn đổ, mà lát sau ?rỗng tếch? đến vô duyên? Nhà văn chỉ kể một vài điều gì đó, nói một gì đó tính chất tương quan, và phải nhường đất cho nhân vật. Nên nhớ là nhà văn đi mô tả nhân vật, quang cảnh tác động nhân vật cần phải tả, chứ không phải mình ?tự hữu tình? đi giải thích mà dành nói tiếng liêng thiêng của họ, nhân vật? Ðó là một điều cấm kỵ, và lầm sai của nhà văn, người viết... Theo HT thì ba phần đều khó cả, nhưng ba phần đều có thể dễ khi ta biết cách. Và theo trải nghiệm của H.Thảo phần vô đầu tuy thế mà lại khó nhất, lâu nhất vì sàng lọc và đầu tử Vì đúng như câu thành ngữ ta có câu ?Vạn sự khởi đầu nan.? Ðúng vậy sau đó rồi thì ta cứ bắt nhịp triển khai có vẻ thỏa mái hơn, nhịp đi lưu loát hơn, hứng cảm hơn. Tuy nhiên với các nhà văn khác, họ có cái nhìn có thể khác hơn VH ạ. Biết đâu mỗi người một ý, một cảm quan. Mình chỉ nói theo ý cá nhân mình thôi Hà ơi.

7. VH: Yes OK!. Nghe có bạn nói HT sang năm 2021, không định viết nữa, nhưng mình thấy cây viết bạn đang vẫn, đang vẫn trẻ, mạnh, nồng nhiệt, và còn nhiều chất tứ lai láng? Tại sao bạn lại có vẻ muốn ?lui về hậu cứ? với ý nghĩ đó. Thảo giải thích như một tính cách cá nhân được chứ? Ồ như là mình thấy tình hình đời sống tại nước Mỹ. (Kể cả dân VN, dân Mỹ và dân các nước đến( Vì Hoa Kỳ là một quốc gia LHQ mà.) Và rồi tình hình trên thế giới cho bạn nhiều luận đề, nhiều cảm xúc để viết. Tuy mình biết công việc, cách nhìn, nhiệm vụ, nhà văn khác với nhà chính trị đúng không nào? Thảo nghĩ sao?

Trước hết xin cám ơn bạn nói đúng với ý mình. Theo Thảo quan niệm nhà văn khác với nhà chính trị. Và mỗi cái nhìn, mỗi góc độ cũng nhìn, qua lăng kính còn khác nhau nhiều lắm, có khi đối lập nhau. Tuy nhiên tiếng nói nhà văn là tâm hồn trung lập, là vì nhân loại, thiên về nghê thuật học, mỹ cảnh học, thẩm mỹ học, và văn chương học. Ðào sâu tâm hồn, về cốt cách tâm hồn để phản ảnh. Sự kiện bối cảnh là những mối tương quan, phần phụ góp làm nền để chia sẻ. Chứ nhà văn không đi làm cái việc tuyên truyền xéo xắc kỳ khôi nào đó. Và Thảo cũng xin trả lời rằng: Vâng. Ðúng mình đã dự định lên lịch là như thế. Nên nghỉ ngơi một thời gian dài đi chẳng sao cả VH ơi.

8/VH: Bạn viết thường có về vật nuôi như ngựa, trâu, bò, thỏ, gà, mèo, chó, có cả chim muông. Và nhất là chó. Bạn hay đề cập đến thú cưng ?dễ thương đáng yêủ này. HT có thể cho biết một vài cảm giác, một vài cảm nghĩ cũng như cảm hứng về nguồn sáng tạo nơi đó.

Thật sự mà nói Thảo sinh ra và lớn lên rất gần gũi với những con vật đáng yêu này, từ trong nhà, đến ngoài sân, đến khung cảnh nơi lân cận bên đường, in đậm vô mắt mình. Mình rất thích yêu mến chúng. Thiệt ra Thảo mô tả về ngựa rất nhiều, trong từng tác phẩm đó chứ Hà? Nhưng mà có lẽ chú chó được nhiều hơn tý. Hơn nữa có ông ba mình càng thương chó lắm. Kỷ niệm về ba với con chó cũng làm mình ám ảnh. Ba đi đâu về là kiếm cơm nguội, hoặc thứ gì đó có trong nhà, cho con Ki liền, miệng ba cứ bảo như thói quen:
? Ki ăn gì chưa con? Ðói nhả. Ăn ngoan ngoãn nhả
Nó nhìn ông ve vẩy đuôi. Hai mắt sáng lên như thầm cảm ơn. Những hình ảnh đó mình thương, không bao giờ quên trong tim. Và có sự hữu tình nơi mình quá lớn không nhạt được Hà ơi. Ðúng là mình có được nhiều kỷ niệm với con vật trung thành này. Xin kể: Mình từ Nam về Trung thăm ba mẹ ( Lúc đã có chồng sinh con thứ rồị) Mình đi mang nó về theo. Khi trở vô Nam, mẹ mình nói con để chó lại. Khi ba vào thăm, ba con sẽ mang nó sẽ tiện hơn. Con bây giờ tay bồng tay bế khó khổ kia... (Ý chừng là một tháng sau ba vàọ) Thảo thương ý mẹ và nghe lời mẹ chỉ mang hai con đi vào Nam. Nhưng chỉ hơn tuần sau mẹ bảo con chó cứ ra cửa ngõ (cỗng nhà) lẩn quẩn, không chịu ăn uống gì cả, và chết mất đêm qua. Thảo thiệt là rất hối tiếc và thương nhớ con chó nhỏ vô cùng?. Nên sự hữu tình bám víu. Thảo hay thổi hồn vào những tác phẩm có chú chó nhỏ. Thảo có viết dành riêng một tác phẩm gọi là ?Chú Chó SDKN.? Một con chó khôn ngoan biết mang ơn và trả ơn cho một người chủ tên Mỹ Dung lượm nó về nuôi. Nó khôn ngoan đến nỗi đánh hơi biết địch thủ kẻ đã thường ?giấu bên trong? một tâm hồn xéo xắt, ma manh, gạt gẫm. Nó ra sức hình phạt cắn xé, tóc tai, quần áo đẹp, dép guốc, xách giỏ của người có tâm hồn phi nghĩa. Và có dịp nó càng đánh hơi, tìm kiếm phanh phui tội ác kẻ xấu đó. Nó Shadow đi tìm vật chứng tang chứng một cách bất ngờ, không ai mà nghĩ ra nó vạch trần được - những con người bỉ ổi đáng ghê tởm kiả Thôi mình xin dừng lại tài con chó vì thấy nói cũng quá đủ rồi phải không nữ sĩ VH. Xin để tác phẩm- ?nhân vật? sẽ làm chức năng còn lại chứ bạn hĩ?

VH: - OK thôi. Hà xin thank you đã chia sẻ tận tình về đề tài thú cưng, nhất là chú chó nha.

9/VH: Xin hỏi một câu tiếp theo. Nhân vật nữ của HT một nét xinh đẹp, hồn nhiên đến khi cũng có lét léo, mạo hiểm, gan dạ cả si tình, và cũng có nhiều chuyển biến bất ngờ? HT lấy cảm hứng từ đâu nhiều vậy. Mà nghe nói HT chỉ xây dựng Nữ vai chính trong truyện phần nhiều có đúng vậy không?

Thật sự mà nói mình lấy cảm hứng, một phần từ mình trước nhất. (Thì lúc mình mới lớn lên cũng đẹp đó mà! Hi hi) Ðến khi sinh ra đứa con thứ. Thì phải nói bé Hằng (Giờ có tên là Angie Tran) nó lại đẹp hiền, như mặt trăng, như thiên thần vào những năm tuổi mới 13-14. Mình đi làm về, nhìn nó ngủ không, trong lòng cũng tràn ngập niềm vui, hạnh phúc. Buồn gì đó cũng qua được khi ngắm con bé. Thì mình dựa vào hình hài nó để tả thôi. Nó lớn dần lên, sắc đẹp được gợi cảm hơn, đầy đặn hơn, cứ tạo đến? đem cho mình cảm xúc trước vẻ đẹp thiếu nữ v.v? Thảo cũng thường xem phim có T.Thúy Hằng trước thập niên... (Tức trước những năm 1975. T.Thúy Hằng cũng ấn tượng một vẻ đẹp lạ lùng, dịu dàng nữ tính, nhưng mạnh mẽ tiên quyết, gan dạ thông minh, lại gợi cảm, sexy mặn mà. Nhưng trái tim lại mang nhiều ?nội tâm? của hiền hòa nhân áỉThảo lấy được cái hồn đó. Thảo thổi vào nhân vật mình sắm? Và gần đây hơn Thảo thích mê lối diễn xuất ?nặng cân? xuất phát vẻ tự nhiên riêng biệt, lại chất chứa vẻ quyến cảm thiêng liêng- Của một cô tài tử Miền Ðịa Trung Hải- Thổ Nhĩ Kỳ Tên là Tuba... Thì đó là những nhân vật hằng ngày đập vô mắt mình một lối thu hút nhân vật nữ. Ðể mình bung ra trong tác phẩm mình - Với thiếu nữ và phụ nữ, có những tính cách mình ưa chuộng như vậỷ
Còn phần VH bảo mình xây dựng thiếu nữ hoặc phụ nữ là vai chính nhân vật chính trong truyện không đúng hết đâu, không hoàn toàn như vậy đâu. Thảo có thể giải thích nè.
Mình xin kể những truyện lập vai Nam chính nè. Tiếng Còi Năm Xưa. Người Tây Sơn. Câu Chuyện Tình Của Nhà Ðạo Diễn. Nhật Ký Một Sinh Viên. Một Cuộc Ðời Ba Số Phận. Khi Người Khờ Lấy Vợ. Mãnh Lực Tình Yêu. Như vậy có thể nói Nam chính trong truyện của HT hẳn có đấy chứ. Phần còn lại thì Thảo viết Nam và Nữ số phận và tính cách nhân vật chính, là như nhau tỉ lệ, cũng khá ngang vai nhau. Và dĩ nhiên phần nhiều hơn, trội hơn là mình viết nữ chính diện. Tự nhiên mình không ép buộc gì cả. Nhưng mỹ học mỹ thuật nó vốn tự có, và nó tự hình thành lên chính nơi mình thôi. Có lẽ mình là tác giả Nữ nên nó thiên nhiều cho nữ hơn chắc. Theo mình nghĩ cũng hợp, cũng trúng thôi. Thảo xin cám ơn bạn có một câu hỏi hay và cho Thảo trả lời với trạng thái công tâm.

10/ VH: Còn nữa nghe một số bạn đọc nói và mình cũng có thấy đọc như vậy. HT viết có đưa ?đẩỷ tình dục vào nhiều, tuy mức độ không phải là lố lăng lắm. HT nghĩ sao về lời đánh giá này.

Thật sự mà nói khi mình viết lên truyện thì tự nhiên nó phải xuất hiện đủ thứ thôi. Tại vì mình viết nhiều mãng đề mà, được ví như chẳng lẽ nào ta cứ đi mua sắm một chỗ Warmak, Koger, Sai Gon, Hong Kong Siêu thị. Mà lâu lâu ta ghé các Mall lớn Macỷs. Burlington Mall, Marshalls, hoặc Costco, Taget. Thì vậy đó. Nếu đầu óc ta phong phú, muốn phong phú thì không thể dẫm chân mà luôn luôn phải đi sáng tạo khác hơn, hoặc khám phá khác hơn, để muốn thử sức ta. Vậy đó thật sự khi dùng chữ ?lôi cuốn đưa đẩy tình dục vàỏ là nói hơi quá, nhưng mà đời sống vốn dĩ mọi thứ có mặt ở trần gian này. Tình dục vẫn hay, vẫn là những điểm nóng dễ thương nơi con người. Hà tất gì ta cứ chạy trốn và giấu giếm, tránh né. Nhưng tình dục vẫn có nhiều thể loại tình dục. Tình dục ngọt ngào của yêu thương lãng mạn, khi tình yêu dâng cao, tình dục muốn có sự va chạm của ái tình thể xác. Và Tình dục kia chỉ có của sự ứp hiếp, chèn ép lạm dụng, đòi hỏi sai khiến, tình dục có khi bị ràng buộc để móc nối. Và tình dục có sự thỏa hiệp hai bên. Còn lại nữa, tình dục bị tấn công một chiều đơn phương nữa v.v? gây ra những thảm họa. Mình viết hầu như có tất cả các thể loại tình dục, nhưng mà lãng mạn ngọt ngào yêu thương chiếm đa số. Còn lại vẫn có những thế lực tham lam, muốn tấn công tình dục. May mà tác phẩm mình ít có thỏa hiệp tình dục, sai lầm và nhân vật nữ mình luôn mạnh mẽ đứng lên bảo vệ mình, đánh tan cái xằng bậy của đối phương muốn tấn công tình dục, đem sa lầy vào tình dục?Vậy đó thôi. Tác phẩm thì cũng phải có người hư, người chính nghĩa kẻ phi nghĩa chống chọi nhau, đối lập nhau thì hấp dẫn hơn, cũng tạo được cao trào hơn. Thảo tỷ dụ một cách viết về tình dục mới mẻ như vậỷ

11. VH: Ok. Thảo sáng tác hướng về độc giả như thế nào? Bạn có nhắn gởi gì độc giả? Hoặc cảm nghỉ gì nơi mình với quê hương sinh ra mình, và đất nước mình đang sống (Hoa Kỳ) này không?

HT trả lời: Thảo sáng tác tất nhiên định hướng phổ quát. Muốn tác phẩm mình từ sang giàu đến nghèo túng, từ tri thức đến người bình thường, từ người đọc sách chuyên nghiệp, đến không chuyên, từ người chuyên môn phê bình văn học lỗi lạc, đến người phê bình nông cạn íck kỷ hay bảo thủ, hoặc yếu kém vẫn được ?mến đọc? hết để biết tính cách số phận, những cảnh đời, những khe cuộc người, lắm nỗi bi đát gian truân, trong cuộc sống sinh động, đến khi có cả ác liệt ập tới, từ cuộc sống hiền hòa đến bến biến động nàỷ Ước muốn là như vậy đó. Nhưng còn tùy vào bạn đọc rất nhiều. Theo HT có cảm giác bạn đọc bây giờ cũng khác lắm. Tuy nhiên là người cầm bút, cầm ngòi viết, suy nghĩ của mình là chính mình chứ không phải chạy theo họ, theo những người đọc sách biến mình thành người viết dễ dãi, đơn giản nhàm nhạt, đùa giỡn hời hợt, với cự ly mệt mỏi, nhỏ nhặt tầm thường không cần trí năng của nhà văn - Phải làm một việc động não là phải cao độ để có được sản phẩm hay! Vì có hiện tượng nhà văn đi sâu vào tâm lý, mô tả nội tâm chuyển biến phức tạp, thách thức trước những biến chuyển, họ cho rằng dài dòng kể lể? Sao không vắn tắt? Sao không ngắn gọn để đọc mau hơn? Vắn tắt ngắn gọn cũng có lề lối của vắn tắc ngắn gọn chứ? NSVH có nghĩ như vậy không? Chuyện này Thảo hoàn toàn đồng ý đó. Nhưng không phải vì thế, mà cái gì cũng vắn tắt sơ sài, giản lược đến nỗi khô khốc như bản báo cáo. Văn chương là đào sâu tâm hồn chứ không phải ghi chép bề mặt sự kiện để phô trương, chỉ vì hiếu thắng hoặc vì tin tức? Chúng ta phải biết ranh giới hai thái cực phải khác nhau, hai sứ mạng khác nhau. Biên Bản và Câu Truyện phải khác nhau. Ðừng lạm dụng và trộn lẫn vào. Có khi bao che, cho cái kém tài văn chương của mình. Mà đi bán rẻ chức năng văn chương, bóp méo giá trị thật của văn chương, của người khác. Thậm chí HT thấy một số người viết văn, chỉ mới tàm tạm vài nội dung hiện tượng hơi mới, tuy vẫn là nội dung xàm xàm, tám tám vô bổ giết thì giờ. Ðọc thấy chẳng rung động chi cả, thật là vô thưởng vô phạt. Chỉ có vài câu văn lạ hơi mới chút, dù cố méo mó sáng tạo văn từ, cho ?ấn taỉ hơn thôi. Nhưng kết thúc chẳng có chút chi là ?máu nghề văn chương?, tức là không gởi lại hàm ý gì hay, ý tưởng đẹp gì được cho bạn đọc? Nhưng là ỷ mình đã có fans đọc lại huênh hoang tuyên bố văn truyện ngắn mới là khó viết, truyện dài có gì đâu mà khó? Cứ pháy con chữ mãi ra dài thôi. Phải viết ngắn lại hơn. Tôi cho rằng truyện ngắn mới khó viết v.v? Câu nói này thật là ?dở hơỉ và đầu độc. Vô tình kềm chế óc sáng tạo người viết, giết chết óc chịu khó trui rèn, về kỷ năng văn chương, Chỉ là những kẻ lười nhát làm văn chương mà cứ muốn gặp thời văn chương cho có ngôi vị với mình. ( Ý này thật sự tôi không cổ xúy viết truyện dài, mà cũng không chê ai đi vào mãng truyện ngắn nào đó đâu. Vì mỗi loại có chức năng riêng, và người viết có cái tài tình biết riêng. Công tâm mà nói truyện dài phải khó khổ viết hơn, đầu tư hơn vì bề rộng, bề dày, bề sâu, đòi hỏi hơn. Nhất là bề rộng?) Tôi H.Thảo là người ở sở trường viết truyện dài. Nhưng vẫn muốn làm cuộc cách mạng viết mới hơn thì có. Nhưng mới hơn như thế nào? Muốn tìm cách, sao cho giảm con chữ ở từng chương hơn, nhưng nội tâm vẫn được giữ vững, khắc họa đầy đủ, tử tế đàng hoàng, phải tránh không thể tạo thô thiển, như một văn bản báo cáo ngột ngạt! Mình đồng ý chọn lối phải hàm súc ngắn gọn, thì beter hơn, thích hợp hơn. Nhưng ngắn gọn theo lề lối cho phép - Một cách súc tích, tinh nhuệ, nếu không cần thiết, gạt bỏ dư thừa dong dài, bởi vô ích không hữu dụng, chẳng đi sâu vào tâm tư, vì dài kiểu sáo rỗng ấy mà. Vậy cần gọn là: cũng có lúc, có chỗ, có nơi, có chốn, chứ đâu phải lười nhát động não, lười sáng tạo, lười tốn times để mà viết cho là ngắn đã đủ, khỏi cần dàỉ?. Bạn cứ nghĩ đi một lâu đài lớn - Ngôi nhà lớn bao giờ cũng cho bạn nhiều khám phá hơn chứ, cuốn hút lạ lẫm hơn chứ. Một căn phòng nhỏ xíu, một căn nhà có đẹp mấy, chỉ có hai phòng đơn sở Cũng không thể so với cách thiết kế, của một lâu đài nhiều góc cạnh ngăn nắp và lỗng lẫỷ Nhưng những tác giả những nhà văn mới được vinh dự ?chạy đứng? lên khán đài cho mình đã có vị trí sở trường tốt, để nhằm phát biểu cho vị thế mình là đỉnh cao, cho mình là thừa tài viết. Chứ chưa nói họ đã lừa đảo họ, và lừa đảo bạn đọc? Rồi họ tự vô tình biến bạn đọc thành những tay sai đọc sách. Ðọc cho có số lượng fans mình hâm mộ, mà thật đáng buồn cho những thành phần đọc vì chém gió, đọc vì một trái tim tay sai, trái tim vô cảm, hay trái tim già nua lười nhác chờ chực... Mình nói nhiều phần này vì bức xúc và có xem qua ý của những nhà văn đang được ?tung hô, khen lấy, khen để ở VN hiện thờị? Nhưng cũng có một số nhà phê bình bậc thầy và chân chính họ đã cảnh cáo bảo: ? Thật ra hiện VN chỉ có những nhà văn đọc tạm tạm gọi là? Chứ chưa có ngôi sao nào hiện giờ làm nên nền văn học sáng giá cả. Dù có các giải thưởng gì chăng nữa, cũng còn rất giới hạn cả nội dung, và hình thức thẩm mỹ của văn chương? Thôi dù gì cứ coi như một sự khuyến khích. Nhưng những nhà văn đó phải tự rà sót, coi lại tài năng mình. Chớ có tự hào, tự mãn là lầm lũi bước đỉ Và sẽ làm hại cho bản thân trên bước đường sự nghiệp văn chương. Hoặc thương trường, chức năng của văn chương??
Nói thiệt nha bạn đọc sách bây giờ số đọc nhưng trái tim vô cảm chiếm khoảng 64%. Còn số còn lại người đọc hiểu biết, có trái tim cảm xúc, và cảm động thật, chỉ ít hơn phân nửa tức là 45%. Nhưng mà mình đang viết cho 45% phần trăm còn lại. Mình từng nghĩ ?Thà chết vinh hơn sống nhục.? Văn chương cũng vậy. Giữa chết và sống trong cái hiện tại. Mình và một số người chưa được sùng bái chưa được ca ngợi. Dù bị cho là coi thường như bị chết trong tủ sách kia vẫn không sao cả? Hy vọng có một ngày và sẽ một ngàỷ Vì mình coi những tác phẩm VN ngày xưa cả Bắc và Nam. Mình lại thẹn với, xót xa cho văn chương. Vì 10 người, được cả 10 viết hay hết. (Dĩ nhiên cũng có một số nhà văn, cùng tác phẩm bị chèn ép qua một thời gian. Thật tội nghiệp!) Bây giờ thì cả trăm, cả ngàn người không được một. Văn chương họ đọc rồi, hình tượng họ xem rồi. Rồi cũng chẳng để lại gì cho trái tim khi mình đọc qua, thưởng thức trọn tác phẩm? Ngày xưa ngày trước văn chương họ, câu truyện họ, đọc tác phẩm xong, vẫn cứ ấn tượng ray rức mãi trên một tuần chưa phaỉ Những cái hương của văn học thật đặt biệt và độc đáo hết sức. Nhà văn bây giờ đọc xong, con người vẫn cứ trơ ra như khúc gỗ, chẳng chạm được vào máu thịt ai, vì sự chuyển tải của linh hồn tác phẩm không có. Nghĩa là nhà văn đi làm một việc tự cho mình có tài, trong khi họ đã không từng có cảm xúc, không từng biết sáng tạo nên ý tưởng sâu xả Nên tác phẩm họ không thể chuyển tải, hay chuyền hơi ấm, chuyền lửa được, không lay chuyển nổi được ai tấm lòng... Bởi vì tác phẩm họ đã không thật sự có hồn, không làm sáng lên một ý gì để lại cho bạn đọc? Mình nói về phần này hơi nhiều vì sự cạnh tranh của văn học. Sự sống còn của văn học VN và đi lên của nó. Mình nhìn ra sức sống tràn trề của một vài nhà văn ở các nước, văn học thế giới ở các châu lục, cũng như nền văn học của châu Mỹ latinh vực dậy sau này để tiến tới, chiếm ưu thế không còn mong manh nữa. Mình là ngừời VN, sống ở nước ngoài. Mình yêu văn học viết về những câu chuyện chính lòng mình có xúc cảm lớn, đã cảm động, đã học hỏi không viết không được.... Viết để chia sẻ cảm hứng cho văn chương. Và cố gắng đưa ra gởi đến các bạn một tấm lòng quan tâm, thật sự rút tỉa nhìn nhận hướng đến cho nhau, để bổ khuyết thứ thiếu hụt cho nhau, cùng đứng lên tiến bộ hơn? hữu ích hơn giá trị hơn của văn chương Việt v.v?
Thôi nói về H.Thảo. Tác phẩm của mình ý tưởng luôn có một tư tưởng định hình, luôn kết thúc bất ngờ như cuộc sống ta vẫn có thể xảy ra theo trường hướng bất ngờ. Nhưng không phải cố ép để đi đến vô lý? Tất cả điều có sự hữu định, nhìn lại cấu tứ, sự tương tác, sự va chạm, sự định số duyên phận, của tác phẩm. Có trình tự và đưa ra được sự tuần hoàn có lý của nó. Và dù câu chuyện nào buồn nhất với hoàn cảnh. Cũng gây ra sự thương tiếc đáng kể, nhưng lại không gieo vào lòng người ảm đạm, thối lui, buồn thảm, chán nản, thất vọng? Mà cũng chính là chân trời mới cho độc giả vui trải nghiệm, và vui buồn để sống để rút tỉa kinh nghiệm? Cách mình viết như vậy. Mỗi nhà văn cầm bút viết đều có một phong cách định hình riêng. VH đồng ý chứ? Như Nữ Sĩ VH cũng biết. Mình là người VN, Thảo là người Việt Nam. Viết gì viết, vẫn luôn luôn ấp ủ trái tim người VN. Có đọc bao giòng văn học khác để biết. Học hỏi cầu tiến khám phá, nhưng vẫn giữ vững tác phẩm mình đem đến công chúng thế giới. Tiếng nói văn chương của người Việt hẳn hỏi. Phong cách, tập quán, tư tưởng, tư chất riêng của VN. Mang tính phổ quát toàn cầu. Song nó vẫn mang sứ mệnh nhân vật và văn chương của VN không lẫn lộn được. Ðó là một tác phẩm mang thương hiệu VN, phải khác với họ?
Nhưng mặt khác là nhất định mang đến sự rung động chung của con người sống trên quả đất này Hà ơỉ
Và một ý sau cùng là Thảo muốn nói. Là Thảo luôn cám ơn Thượng đế cho mình được sanh ra từ một cha mẹ người Việt, có trải nghiệm người Việt mới viết những trang sách đậm chất người con quê hương xứ Việt?Và đang sống tại Mỹ lại là một vùng đất tự do được phát huy sáng tạo, và có quyền định hình lên nền sáng tạo của mình. Thảo xin thanks cám ơn đất nước VN và ba mẹ mình. Cám ơn đất nước Hoa Kỳ đã tạo cho con người phát huy hết năng lực của chính mình. Và sau cùng xin cám ơn NSVH có bài phóng vấn và tạo điều kiện cho mình thật lòng chia sẻ tất cả. Quả là niềm vui lớn của HT...

12/VH: Cuối cùng VH muốn HT đọc ghi bài thơ mà HT thích đỉ HT có rất nhiều thơ mà ngại chi không đọc một bài cho VH cùng các bạn quan tâm thưởng thức. Ðúng không nào? ?Ra khơi thở đi bạn?

OK. Thảo xin đọc ghi một bài này nhé.
Ðây sứ giả hoà bình cánh chim mộng
Ngoài đảo xa để mơ ôm lấy đất liền,
Ðây là đâu ôi với những nàng tiên
Trên ốc đảo chập chờn phơi tóc ước.
Sứ giả hoà bình không phải là những nàng Bá Tước.
Tiền thênh thang lỗng lẫy của uy quyền.
Sứ giả hòa bình như những con chiên,
Thời ngoan đạo đi xây mầm chân lý.
Sứ giả hòa bình là tình yêu thâm thúy,
Như trái tim ao ước mãi nguyện cầu.
Cho tình ai sống lại với bền lâu,
Chẳng chịu thua dù dòng đời nghiệt ngã.
Sứ giả hòa bình là bông hoa thơm lạ,
Gương nghĩa nhân và bụng dạ thiện toàn.
Sứ giả hòa bình không để ý chuyện cỏn con,
Luôn rộng mở, với quên đi và tha thứ?
Ðể tình yêu lứa đôi thêu dòng đời lịch sử,
Ðường- phượng- bay- trong phương hướng ngự nhìn?

13/ VH OK. Mình còn 12 câu hỏi nữa. Cả thảy dành cho bạn trả lời. Ðể chuẩn bị cho kỳ tới. Mình giờ chỉ đưa ra một câu cho bạn làm quen trước, chuẩn bị trước. Bạn nghe coi như đây gợi ý cho Thảo biết sơ nha.
?Truyện của bạn chiếm tỉ lệ âm nhạc lồng vào khá nhiều. Và toàn là những bài hát, bài ca độc đáo. Vậy thử hỏi vì sao bạn có tư tưởng đó. Thảo có thể cho biết cái ?mốt càỉ và mục đích sử dụng những bài hát đó.

Vâng! Thảo hiểu câu hỏi bạn gợi ý rồi. Tạm ngưng một kỳ nhé. Một lần nữa xin cám ơn VH, nhiều và thật nhiều.
HT (Hiếu Thảọ)
VH. HT October/10/20.
______________________
PV Kỳ 2 Những câu hỏi tiếp theo.
14/ Thảo có nhớ những bài hát đó không, thử kể tên choVH và bạn đọc được biết thử cho vui. Không cần Thảo nói từng bài ca ở tác phẩm nào, chỉ nói Thảo nêu tên liệt kê ra thì đủ rồi. Theo VH ước lượng khoảng 50 bài ca có hơn đó. Ðúng không Thảo?
Lòng mẹ (BK)
Ngậm ngùi. Bướm Trắng (GMSS)
15/Ðược biêt HT viết truyện có nhiều tác phẩm có ma. Cảm hứng nào cho bạn xây dựng những nhân vật ma như thế. Khi bạn viết ma trong truyện bạn có cảm giác sợ không?
16/ Trong sự nghiệp sáng tác bạn thích tác phẩm nào nhất. VH không cần hỏi lý do vì sao? Chỉ cần bạn chọn lựa và đọc một vài đoản văn trong đó mình thích nhất là đủ thôi.
17/Người ta (bạn đọc) và giới phê bình hay nói. Tác giả thường hay thương tác phẩm đầu tay của mình nhất. Quan niệm như thế Thảo có cho là đúng không? Hoặc thế nào? Theo HT. Tác phẩm nào là tác phẩm đầu tay của HT nhỉ. Cũng có thể đọc một đoạn văn, hay một đoạn lời thoại trong đó. Thảo thích ở tác phẩm đó.
18/ Tác Phẩm HT man mác những bài thơ ai? Thảo đem vào nhiều khi sử dụng cần có. Người ta nói thơ của chính HT cũng được đưa vào nhiều, điều đó thật không? Ðúng không? Thảo có thể giải thích vắn tắc cho VH hiểu hơn nha.
19/ Hoạ sĩ cũng là nhân vật ?Nam Chính? trong nhiều truyện của Thảo. Ðiều đó có chính xác không? - Ðúng vậy không? Vì đâu Thảo có tư tưởng lớn đó. Và có được bao nhiêu tác phẩm ?chàng họa sĩ điển traỉ? Thảo nhỉ?
20/ VH thấy sự xuất hiện ca sĩ cũng nhiều trong một số tác phẩm. Vì sao Thảo có ý tưởng này, xây dựng tác phẩm thể loại đó? Theo Thảo nghĩ nét ?kiểủ viết đó, có vẻ mới mẻ lắm không?
21/ VH đặc biệt có thấy hai tác phẩm xây dựng hình tượng ?cuộc yêu nhà thợ?
*Một tác phẩm cô nàng thiếu phụ xinh đẹp đi lấy chồng người thứ hai, về gặp lại người ?yêu trong mộng? nàng ngỡ ngàng, tiếc nuối, đau xót. Nhưng bản thể nào yêu chồng và trọng nghĩa. (Tuy là cả một giấc mơ lớn.)
* Một tác phẩm người thiếu phụ xinh đẹp tài hoa và đủ đức hạnh đã vượt qua thử thách gian nan, để cùng đoàn tụ bất ngờ, ưng lấy nhà thơ trong mộng của mình - Ý là cuối cùng họ 1ấy nhau, chung sống trọn vẹn.
Tại sao hai cảm xúc khác nhau. Chỉ cùng giống nhau chi tiết ấn tượng, đó là nhà thơ lớn góa vợ? Cùng một phụ nữ góa chồng bao năm tháng? (Người chồng đầu tiên cô chết bất đắc kỳ tử.) HT có thể cho biết ý tưởng xu hướng, cũng như sự trái nghịch tạo nên, tác phẩm đó Thảo nhé. Cứ trung thực nói với cảm hứng khi Thảo viết đi. Vì Thảo biết nhà văn có quyền định đoạt tất cả mà. Từ cái vô lý đến cái có lý tuyệt vời mà chỉ có nhà văn haỷthiên sứ văn chương? mới đủ tài, mới đủ để thuyết phục bạn đọc hạp nhãn, hạp lòng? Thảo ạ.
22/ VH cũng biết. TT. Hiếu Thảo viết mang dấu ấn quê hương thật nhiều. Từ đất ở - Ðịa danh và con người sinh hoạt nơi đó. Cả xứ Mỹ Georgia- Atlanta này! Lý do tại sao? Dòng máu bạn luân lưu, cảm quan nó?
23/ Thảo nghĩ gì nhân vật dựng trong tác phẩm và thực tế bên ngoài. Có choãi nhau không, trùng khớp không?
24/ Theo HT tuổi nào viết hay nhất. Người ta bảo văn thơ kiếp tằm nhả tơ. Bạn nghĩ thế nào? Bạn vui buồn gì ở câu nói này không?
Tạm ngưng Chúc sức khỏe Thảo. Và lần lượt trả lời nhé.
Cứ là tự nhiên. phóng khoáng, và sẵn lòng thôi. Mong sự hợp tác của Hiếu Thảo.
VH @ 2/ Feb/ 21/
_________________

Trần Thị Hiếu Thảo

Mục Lục


10. Tấm Giấy Ra Trại

Nguyễn Ðịnh




TẤM GIẤY RA TRẠI
và cơ chế Hành chánh của chế độ,


Khoảng thời gian mà tôi cầm Tấm Giấy Ra Trại, mọi phương tiện giao thông trên toàn Việt Nam gần như kiệt quệ, Phương tiện di chuyển từ Bắc vào Nam thịnh hành vẫn là xe đò, hoặc xe lửa, nhưng xe gì cũng phải mua chợ đen, giá tăng gấp đôi, những người không tiền, phải ra bến xe xếp hàng từ 1, 2 ngày trước .

Phương tiện di chuyển liên tỉnh chỉ có xe đò, ngày chỉ có một chuyến xe, 40 chổ, nhưng mấy bác tài xế có thể nhét thêm 10 người nữa, cộng thêm hàng hoá, xách tay, qủa là rất vất vả cho hành khách, cho nên ít ai đi lại đó đây. Hơn nữa, người dân muốn đi từ Nam ra Bắc phải xin giấy Thông Hành của Thành phố hay Tỉnh cấp, phải làm đơn xin phép trước 1 hay 2 tuần, đi lại trong phạm vi những tỉnh trong miền Nam, thì xin giấy Ði đường của cấp Quận hay Huyện.Không

có Giấy đi đường, không thể mua được vé xe, không thể xin tạm trú ở nơi đến.

Ðặc biệt đối những người xin phép đi thăm tù cải tạo, những người đã từng làm việc cho chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, việc xin Giấy Thông Hành không khác gì trước năm 1975 xin đi xuất ngoại du học.

Một đêm trước ngày tôi được tha, bạn bè đẵ dặn trước là coi chừng bị ăn cắp, nhất định phải ngủ lại ở bến xe ít nhất vài ngày, từ trại tù cải tạo tôi ra đến bến xe đã 5 giờ 30 chiều, nhìn 4 hàng người ngồi la liệt trước phòng vé đã có hơn vài trăm, tôi thầm nghĩ đến phiên tôi chắc là phải vài ba hôm sau nữa mới mong mua được vé. Bỏ ba-lô xuống hàng thứ 4 sau cùng, tôi ngồi xuống, có gì dơ đâu mà sợ, chiếc ba lô nhà binh, bộ quần áo tù, ai nhìn tôi cũng hiểu thân phận rồi, nhưng lạ thay, hầu như ai cũng nhìn tôi rất thân thiện, không giống như những điều tôi hàng ngày vẫn nghe cán bộ nói "không phải Ðảng và nhà Nước không muốn tha các anh, mà chỉ tại các anh là những người có nợ máu, kẻ thù của nhân dân, tha các anh về, chỉ sợ chưa đến nhà, các anh đã bị nhân dân đánh chết ngoài đường".

Một số các hành khách lớn tuổi, còn hỏi thăm tôi về đâu, có khỏe không, gia đình có biết được tha chưa . . . , trong lúc tôi đang lo trả lòi các câu thăm hỏi, thì hai cô, chú Bảo vệ đến cạnh tôi hỏi:

- Chú đi học tập được tha phải không?

- Chú mua vé về đâu ?

Tôi chưa kịp trả lời thì cô Bảo Vệ hỏi tôi giấy ra trại. Qủa thạt tôi có một chút lo, vì từ trong traị cải tạo, chúng tôi đã nghe danh đám công an, cán bộ 30, chuyên môn hà hiếp người, nhất là đối với những sĩ quan đi học tập cải tạo trở về. Tôi đưa tấm giấy ra trại cho cô Bảo Vệ, chừng 10 phút sau cô trở lại trả cho tôi tấm giấy ra trại và vé xe 6 giờ 30 sáng mai về Sàigòn, ghế số 2 với giá qui định. Chú Bảo vệ dặn tôi: "chú đừng lo, các cháu đã nói với tài xế xếp chổ cho chú, chú không phải trả tiền cước Ba-lô đâu, chú vào quán trọ số 5 ngủ tạm đêm nay, 6 giờ sáng, chú ra đây là được rồi, chúc mừng chú đoàn tụ với gia đình". Tôi cám ơn hai người bảo vệ mà lòng đầy xúc động. Những hành khách đang xếp hàng cũng chúc mừng tôi, tôi đã gặp lại tình người, tình của những người dân đối với lính.

6 giờ 30 sáng hôm sau, xe bắt đầu lăn bánh và chạy cho đến 12 giờ trưa thì ghé vào ăn trưa ở một quán bên đường, hành khách xuống xe để ăn uống. Người tài xế ngồi lại chờ cho hành khách xuống hết, rồi xuống xe sau cùng với tôi,

- Chừng 6 giờ hơn mình sẽ đến Sàigòn, người tài xế nói với tôi.

- Hơn 12 tiếng đồng hồ, tôi hỏi ?

- Vâng, đưòng xá bây giờ tệ lắm, mấy ổng đâu có sửa sang gì, chỉ là lấy của dân thôi, mai mốt về Sàigòn rồi ông sẽ thấy.

- Xe này là của ông hay của nhà nước ?

- Xe của tôi, nhưng nhà nước quản lý, hư hỏng thì tôi sửa, tiền là tiền lương, vì vậy buộc lòng chúng tôi phải lấy tiền cước hàng hoá của hành khách để tu sửa xe. Ông biết mà, để được cầm lái chiếc xe này, nói thật là tôi phải làm đơn lạy họ, mới được gia nhập Nghiệp đoàn xe khách, nếu không thì họ đã lấy mất xe rồi. Còn nhiêu chuyện lắm, bây giờ thì ai cũng biết cả, nhưng rồi làm sao. Hôm nay, chúng tôi mời ông ăn cơm trưa với chúng tôi, tôi hay là các xe khác đều cũng vậy, hễ có sĩ quan tù cải tạo về là chúng tôi mời ăn cơm ở dọc đường, ông cũng hiểu rồi, bây giờ thì chúng tôi chỉ có thể làm được như vậy đối với người mình.

Hành khách đã xuống hết, ông và tôi vào quán, ngồi xuống một bàn đã dọn sẳn, người lơ xe đứng dậy kéo ghế cho tôi,

- Bác ở trong đó lâu không ?

- Cho đến hôm qua.

- Ba cháu và anh cháu cũng chưa về.

- Ba cậu ở đâu ?

-Trại Ðưng, Thanh hóa.

Lâu lắm rồi, tôi không trông thấy canh cá lóc, không nhìn thấy thịt sườn, nên bữa cơm hôm nay là bữa cơm ngon nhất trong đời tôi. Trong khi chúng tôi đang ăn thì bà chủ quán đến nói với tài xế:

- Anh Tám này, đây là chút tình, bà vừa nói, vừa nhìn tôi.

- Cám ơn chị Sáu, rồi ông đưa cho tôi một bao thuồc lá trong đó có 73 đồng, ông nói: "như thường lệ, là quán nào cũng vậy, xe nào cũng vậy, đều có quà cho những tù cải tạo trở về, nếu họ đi trên đường này, và bất cứ là cấp bậc gì, xin ông đừng ngại".

Tôi đứng lên cám ơn bà chủ quán và người tài xế, nhưng không nói ra lời, một bác hành khách ngồi bàn bên cạnh quay lai vổ vai tôi như thông cảm tâm tình tôi lúc đó.

- Ðây là tâm ý của chủ xe, chủ quán và hành khách trong xe, ông đừng ngại.

Trong khi đó một em bé bán kính đến mời chào mọi người trong quán:

- Cháu có đủ kinh râm, kính mát, kính lão, kính cận thị, mời ông bà mua giùm.

- Giải phóng mấy năm rồi, mắt bác đã sáng, đâu cần mang kính nữa, cả quán cùng cười. Tôi quay lại nhìn về hướng đó, một người đàn ông ngoài 50 đang nhìn em bé bán kính và cười.

Thật là một câu khôi hài và ý vị.

2

Khi xe về đến Long Khánh thì dừng lại đổ nước, những người bán trái cái cây, bánh kẹo, chạy đến mời hành khách mua, những người khách chờ xe về Sàigòn cũng chen nhau bước lên xe, tôi hỏi ông tài xế:

- Chở nhiều như vậy không sợ bị phạt sao?

- Có gì đâu, cho nó 20 đồng là hết, tôi chở thêm 10 người, bớt đi 20 đồng của một người thì cũng còn lời chán, bây giờ xe nào cũng vậy.

Nghe người tài xế nói, tôi chợt nhớ đến một án lệ ở nước ngoài đại ý là "Nếu những chiếc xe chỡ hành khách, chở qúa số người ấn dịnh, đã đi qua trạm kiểm soát, mà cảnh sát không ngăn chận, thì nếu bất cứ một người hành khách nào trên xe bị tổn hại, do việc chở khách vượt qúa ấn định, (số lượng khách ấn định là số ghế trang bị cố định trên xe) thì toà án sẽ truy cứu trách nhiệm cho cảnh sát, mà không phải tài xế, người tài xế chỉ bị truy cứu về trách nhiệm dân sự mà thôi". Các toà án của Việt Nam Cộng Hòa cũng trích dẫn án lệ này.

Tôi về đến Sàigòn thì đã tối, việc đầu tiên phải làm là trình diện công an Phường, nhưng đã hết giờ, đành đi tìm công an khu vực, không gặp được công an khu vực thì tìm tổ Trưởng Dân Phố, hàng xóm của tôi đã chỉ tôi điều này.

Sáng hôm sau tôi ra Công an phường trình diện.

- Về hồi nào? một công an mang cấp bậc Trung úy,(sau này tôi mới biết là Trưởng Công an Phường), hỏi tôi.

- Thưa chiều hôm qua,

- Mày ngồi xuống, mày phải biết là nếu 2 bàn tay mày không đầy máu thì Mỹ, Ngụy không gắn cho mày cái cấp bậc đó trên vai. Ðem đơn này lên Quận xin với Quận, nếu Công An quận, Quản Huấn Quận đồng ý thì mang về đây.

Tôi lên công an Quận, công an chỉ qua Ban Quản Huấn, đến Ban quản Huấn tôi nộp giấy ra trại và đơn xin tạm trú cho người phụ trách, rồi ngồi chờ 2 tiếng đồng hồ, hết buổi sáng, tôi nghĩ, Một lúc sau, người nữ công an mang giấy ra trại và đơn xin tạm trú trả lại cho tôi và nói: Anh phải lên Thành phố xin.

- Xin cán bộ cho biết địa chỉ

- Lên công an thành phố mà hỏi!

Tôi về nhà, tìm hỏi những người bạn về trước, họ cũng chẳng rõ ràng "Tụi nó thay đổi như chong chóng, chẳng biết đâu mà mò, hãy lên thử đường Phan Thanh Giản ( Ðiện Biên Phủ), thôi để tôi dẫn anh đị"

Tôi nhờ người bạn chở đi và ngồi chờ ở Ban Quản Huấ Thành phố gần hết giờ làm việc mới xin được tạm trú với lời ghi "Ðồng ý cho tạm trú tại thành phố Hồ chí Minh một tháng, chờ làm thủ tục hồi hương đi Kinh Tế Mới.

Tôi mang sự chấp thuận tạm trú một tháng của Ban Quản Huấn Thành phố về trình công an Phường:

- Ðược, anh mang về nhà bảo vợ anh viết thêm vào cuối đơn thế nầy:

"Tôi tên là .......

Thường trú tai số........

Ðường ........ Phường ......

Là vợ chính của ...............

Bằng lòng cho chồng tôi được tạm trú tại nhà của tôi một tháng và đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của địa phương"

Những tờ đơn xin tạm trú này tôi vẫn giữ mãi bên mình, như kỷ niệm khôi hài mà tôi đã gặp trong đời mình.

Chỉ thị 08/1979 CỦA THÀNH -ỦY THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Thời gian tôi ra tù thì chỉ thị 08/1979 đã ra đời và vẫn còn hiệu lực, chỉ thị này do ông Võ văn Kiệt là bí thư Thành Ủy thời đó ký. Chỉ Thị dài 7 trang rưởi đánh máy. Nội dung của chỉ thị qui

định về việc xử dụng ?trí thức tại chổ?, ở Khoản b - mục 3.

Trí thức tại chổ là những người tốt nghiệp từ Ðại học trở lên, không phải do hệ thống Xã hội Chủ Nghĩa đào tạo, mà tốt nghiệp từ các nước Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, hoặc các đại học tại miền Nam . . . và các nước khác trong khối tư bản chủ nghĩa.

Khác biệt với trí thức xã hội chủ nghĩa là những thành phần tốt nghiệp ở các đại học miền Bắc hay tại các nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa.

Căn cứ vào Chỉ thị 08, những sĩ quan đi tù cải tạo trở về, nếu tốt nghiệp đại học, phải đến số 43 Nguyễn Thông, Quận 3, (Hội Trí Thức Yêu Nước) để khai báo. (Hội Trí thức yêu nước nằm trong Mặt trận tổ quốc, là một bộ phận của Ðảng), để được bố trí việc làm mà không thuộc diện đi Kinh Tế Mới.

Cái khôi hài là muốn xin việc làm ở đâu, cơ quan nào trong thành phố cũng phải có Lý Lịch được công an phường nơi cư trú chứng nhận.

Nhưng muốn được công an chứng nhận Lý Lịch, lại phải có Hộ Khẩu thường trú. Vì vậy, khi tôi mang lý lịch ra công an phường xin chứng nhận, công an hỏi tôi:

- Hộ Khẩu thường trú đâu.

- Tôi học tập về.

- Chúng tôi không chứng nhận lý lịch cho những người không có Hộ Khẩu thường trú tại Thành phố.

Tôi mang lý lịch về nhà, Tổ trưởng Dân Phố bảo tôi mang ra Ủy Ban Phường cho ông Thọ là Phó Chủ Tịch An Ninh Phường. Ông Thọ không cần đọc lý lịch của tôi, ông chỉ ghi:

"Ðương sự có xin tạm trú tại địa phường".

Tôi mang lý lịch đến Hội trí thức yêu nước nạp cho người phụ trách. Một tuần sau, công an phường gọi tôi lên, Trưởng công an hỏi tôi:

- Anh biết ở đây ai quản lý người không, tôi hay anh Thọ ?

Tôi im lặng vì chưa hiểu được sự việc, Trưởng công an lôi trong học bàn ra tờ lý lịch của tôi rồi chỉ con dấu của Ủy Ban Nhân dân phường và chữ ký của ông Nguyễn Thọ.

- "Tôi muốn nhắc nhở anh, tôi mới là người quản lý các anh, Ủy Ban Phường không có quyền gì", và trả cho tôi tờ lý lịch có chứng nhận của công an phường:

"Ðương sự là sĩ quan ngụy học tập cải tạo được tha về tại địa phương thuộc diện phải đi Kinh Tế Mới, đang chờ địa phương sắp xếp".

Thật đúng như câu khôi hài mà cô Thư Ký Phường nói với tôi:

- "Công an là quan, Ủy Ban là lính !"

Thật là khôi hài !

Nhìn sự việc, qủa thực, công an có quyền hành rất lớn, vì công an là công cụ bảo vệ và phục vụ chế độ. Tuy nhiên, cơ cấu chính quyền của Cộng sản là một mô thức đặc biệt chuyên chế, mà trong đó, không hề có sự phân ranh giữa các cơ quan Lập pháp (Quốc hội), Hành pháp (Hội đồng chính phủ tức là Thủ tướng và nội các của Thủ tướng, các bộ trưởng) và Tư pháp (Tòa án).

Từ Phường (Xã), Quận (Huyện), Thành phố, Tỉnh, lên đến Trung ương, tuân hành 2 hệ thống: chính quyền và đảng. Nhưng lại chấp hành một chỉ thị, đó là chỉ thị của Ðảng.

Tại Phường (Xã), có đảng bộ Phường, cầm đầu là Bí thư, chỉ thị cho Ủy Ban phường thi hành mọi đường lối chính sách.

Tại Quận (Huyện), có dảng ủy Quận, huyện, có bí thư, phó bí thư, ban thường vụ, ra lệnh cho ủy ban Quận (Huyện) và công an.

Cũng mô thức đó, tại Tỉnh hay Thành phố, cũng rập khuôn như vậy.

Tại Trung ương, có Tổng bí thư, Ban bí thư Trung ương dảng, chỉ thị cho chủ tịch

nước, hội dồng chính phủ.

Cái tệ hại là, một người vừa có thể là chánh án, lại vừa là chủ tịch hay phó chủ tịch ủy ban, hoặc là viện trưởng hay phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân, mà cũng là đại diện dân cử như quốc hôi, hội đồng nhân dân các cấp, đương nhiệm, cho nên họ có thể tùy nghi dùng quyền hành ở bất cứ chức vụ nào mà họ đang mang trên người.

Vì vậy trong hệ thống xã hội mà Việt Nam đang áp dụng, không hề có sự độc lập giữa Lập Pháp, Hành pháp, hay Tư pháp. Và đảng là tập thể đứng trên luật pháp, ngoài luật pháp và chỉ thị cho

luật pháp thi hành theo ý của đảng! Ðảng không những nắm vận của mệnh quốc gia, mà còn nắm luôn sinh mạng của từng người dân trong nước.

Ðiều này hoàn toàn khác biệt với cơ chế của Việt Nam Cộng Hòa. Luật Pháp VNCH minh thị sự đoc lập tuyệt đối giữa Lập pháp, Hành pháp và tư Pháp. Một Tỉnh Trường, một chánh án, nếu đắc cử vào chức vụ dân cử, đương nhiên phải từ nhiệm chức vụ củ, nếu là quân nhân, đương nhiên phải giải ngũ. Và đặc biệt là không ai có quyền xen vào công việc xét xử của Tòa án.

Ngày thứ 21 trong thời hạn 30 ngày tạm trú, tôi nhận được giấy "Yêu cầu trình diện nhận việc" của Bộ Ðại Học và Trung học chuyên nghiệp, đặt tại số 35 đường Lê Thánh Tôn, Quận I Sài gòn (TP Hồ chí Minh).

Làm việc và sinh hoạt trong chế độ, tôi càng thấy rõ chế độ hơn: Hối lộ và tham nhũng, quan liêu và bè phái.

Muốn làm chiến sĩ thi đua, đạt tiêu chuẩn tiên tiến trong bình bầu A, B, C mỗi nửa năm ư, đâu cần chăm chỉ, đâu cần tài ba, chỉ cần qùa cáp cho thủ trưởng là đủ rồi.

Mỗi đơn vị, tất cả mọi đơn vị trong cơ chế xã hội chủ nghĩa đều giống nhau, trên đội, dưới đạp. Trí thức tại chổ chỉ có làm việc, không có tiêu chuẩn chế độ, không được đòi hỏi, đề nghị hoặc yêu cầu. Nhưng có một điều không phân ranh trí thức tại chổ hay trí thức xã hội chủ nghĩa, đó là "vàng".

Bạn muốn có hộ khẩu tại thành phố ư ? 4 đến 5 lượng vàng là xong (1 lượng vàng tương đương 1 ounce) - Muốn vượt biên, đi chui, 3 lượng/1 người, đi bán chính thức 7 lượng /người - Bị công an bắt, chẳng có gì phải lo, có vàng là xong mọi việc.

Xã hội của xã hội chủ nghĩa như thế đó, nhưng báo chí không bao giờ dám nói đến nửa lời, vì báo Thanh Niên ư? Chủ nhiệm chủ bút là Bí thư thành đoàn, Báo Saìgòn Giải phóng là của Ban Tuyên huấn, Báo công an là của công an, báo Tuổi Trẻ cũng là Ðoàn Thanh Niên Cộng sản thành phố Hồ chí Minh...

Bổng nhiên tôi lại nhớ Ông Trần Hữu Thanh và nhóm ký gỉa đòi tự do báo chí của những năm 1973, 1974. Không hiểu bây giờ ông Trần hưũ Thanh ở đâu? Nhóm ký gỉa của năm 1974, 1975 đâu, sao không xuống đường tuyệt thực và đi ăn mày để phản đối nữa? Thật là qủa báo, ngày hôm nay mấy ông ký gỉa đó chăc đang tuyệt thực và đi ăn mày thực sự rồi!

Tiếc thay, phải chi chế độ Cộng Hòa ở miền Nam có được một chút độc tài, một tý hạn chế tự do dân chủ, thì có lẽ Miền Nam chưa đến nỗi chết yểu ở cái độ tuổi chưa thành niên. Và 26 triệu dân miền Nam không lâm cái cảnh này, hàng trăm ngàn người không phải bỏ thây trên biển, hàng chục ngàn thanh thiếu nử và phụ nữ không lâm cảnh bị hãm hiếp rồi vất xuống biển sâu.

Mỗi chiều sau giờ làm việc, tôi vẫn tìm theo con đường Nguyễn Du, vòng qua Huyền Trân Công Chúa, rồi theo đường Hồng Thập Tự để ngược trở về. Nhìn khu vườn Dinh Ðộc Lập, tôi thật không sao nén được cảm xúc trong lòng:

. . . . ?????????????

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Vườn xưa tràn ngập vàng rơi

Bao nhiêu lá chết đổi dời thời gian

Tôi hôn âu yếm cánh vàng

Nghe như dao cắt bàng hoàng xót đau!

??????????????? ?

Mùa Thu của Sài gòn thật ra không có mấy thay đổi so với miền Cao Nguyên đất đỏ như Pleiku hay Banmêthuột, rừng lá thay vàng, cỏ úa báo mùa sang. Và cho đến bây giờ tôi thật vẫn không sao quên được những nơi này, nơi đã cho tôi biết bao vui buồn đời lính, bao máu xương của đồng đội hay là bản thân tôi đã đổ ra. Và tất cả đó, mỗi khi nhớ lại, vẫn còn mãi mãi là một nỗi sầu lãn quất trong lòng tôi .


Nguyễn Ðịnh

Mục Lục


IIỊ Hộp Thư Toà Soạn ___________________________________________________



Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 241 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị

Mục Lục


Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà: 1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com 4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Nguyệt San Giao Muà Homepage: http://www.GiaoMuạcom Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà: Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất : 1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode 2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy 3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc 4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện. 5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng 6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ

Ðịa Chỉ Liên Lạc:

Nguyệt San Giao Muà
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

Trang Nhà 

Web Counters
Web Site Hit Counter

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors