Nguyệt San phát hành định kỳ vào mỗi đầu tháng

www.GiaoMua.com

Nguyệt San Giao Mùa
P.O.Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

GiaoMua@hotmail.com

+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Số 239

Ngày 1 tháng 3 năm 2022

Home | Giao Mùa (Unicode) | Giao Mùa (Vietnet)
Những Số Cũ | Thư Ngỏ | Liên Lạc

Chủ Nhiệm kiêm Chủ Bút: Ðinh Trường Như (TK Trung Kỳ)

Ban Biên Tập:

Mạc Phương Ðình, Phan Thái Yên

Chung Thủy, Nguyễn Thị Thanh Dương

& TK Trung Kỳ

Mọi bài vở đóng góp xin gửi về GiaoMua@hotmail.com

Web Counters

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors

++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++

Mục Lục

Nhận Ðược Tin Buồn Hiền Thê của nhà thơ Hàn Thiên Lương là Chị Trần Ngọc Liên, pháp danh Viên Ngọc vưà qua đời tại Oregon, USA . Thành thật chia buồn với anh Hàn Thiên Lương và gia đình. Cầu mong hương linh Chị sớm tiêu diêu miền Cực Lạc.

Xin Xem Cáo Phó ở Mục Tin Tức

BBT Giao Mùa


Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.

I . Thơ _______________________________________________________________________

1. Hoàng Kim Một Thủa ______ Tử Du
2. Xuân Tha Hương ______Hàn Thiên Lương
3. Thơ Cho Ngày Lễ Tình Nhân ______Ðặng Xuân Xuyến
4. Mây Trời Lãng Du ______ Thanh Hà
5. Cơn Mơ Ðã Rồi ! ______ Nam Thảo
6. Bước Vụng ______Bạch Liên
7. Tháng Giêng Buồn ______ Viễn Phương
8. Mấy Lời Trăng Trối Ðầu Xuân ______ Phạm Ngọc Thái
9. Ly Cà Phê Ðen Ðá ______ Nguyễn Thị Thanh Dương
10. Dư Âm Mùa Tết ______Sông Cửu
11. Nếu Không Có Mùa Ðông ______ChinhNguyên/H.N.T.
12. Ðường Xưa Mây Trắng Còn Bay ______ Lê Miên Khương
13. Khai Phím Ðầu Năm (Tây) ______ Trần Huy Sao
14. Hổ Phụ Sinh Hổ Tử ______ Nhật Quỳnh
15. Dưới Cội Già So Ðũa ______ Tình Hoài Hương
16. Viết Ngày Tiễn TÁO ______ Thylanthảo
17. Bài Tháng Giêng ______ Tuyền Linh
18. Người Ði, Xuân Có Về? ______ Bảo Giang

II . Văn _______________________________________________________________________

1. Texas Nhõng Nhẽo/Lộn Phòng ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhìn ___________ Tình Hoài Hương
3. Cuối Cùng Cho Một Mùa Xuân (tiếp theo và hết) ___________ Phan Thái Yên
4.Những Chuyến Xe Lửa ___________ Thanh Hà
5. Trò Chuyện Với Khoảng Không Trước Mặt ___________ Tuyền Linh
6. Khúc Phim Buồn ___________ Nguyễn Ðịnh
7.Cải Xanh ___________ Bạch Liên
8.Mấy Sông Cũng Lội ___________ Kim Loan
9.Bài Thơ Phiên Chợ Ðào San ___________ Ðặng Xuân Xuyến

III . Tin Tức /Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________

1. Tin Tức/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập

I . Thơ __________________________________________________

1. Hoàng Kim Một Thủa  
 

Ta tìm về dĩ vãng,
Thời vàng son khi xưa,
Ðể lòng êm ái ngủ,
Cho tròn một giấc mơ. 

Ngày bây giờ quá vội,
Ðời lại quá ồn ào,
Cho ta thành con rối,
Quây quần trong chiêm bao.

Biết làm sao em nhỉ,
Những êm ái ngày xưa,
Ðã dần dần xa mờ,
Chôn ta vào hoang vu. 

Ðời mù tăm mất lối,
Hồn lạc lỏng gọi người,
Tình yêu đang hấp hối,
Ðôi linh hồn rã rời. 

Ta tìm trong dĩ vảng,
Gọi em đưa ta về,
Thời hoàng kim một thủa,
Cho ta thoát cơn mê.  

                                                        
Tử Du 
Mục Lục


2. Xuân Tha Hương Tết ở đây không có mai vàng Nhớ v ề quê cũ dặm ngàn xa xăm Bước đi từng bước âm thầm Mịt mờ mưa đổ lâm râm thêm sầu. Ở đây xuân nở hoa đào Mà sao cứ nhớ sắc màu xuân quê: Người xa vội vã trở về Ðền chùa mở hội bốn bề đông vui. Sân nhà mai thắm sắc tươi Vườn sau lũ trẻ vui chơi cười giòn Bàn thờ rực rỡ màu son Khói hương nghi ngút vương hồn tổ tiên. Xuân quê một cõi mộng hiền Núi đồi đồng nội triền miên hữu tình Trời xanh én liệng bình minh Báo mùa xuân tới thanh bình yên vui. Tha hương Xuân đến ngậm ngùi Hồn đau cách trở biệt lời cố hương Xuân ơi! Xuân đến thêm buồn Mưa rơi gió lạnh ngoài đường vắng tênh! Portland.OR 2022 Hàn Thiên Lương Thương Tiếc Ở đây Tết đến sao buồn quá?! Tôi nhớ đường quê nhớ núi sông Nhớ cảnh cao nguyên xanh bóng lá Chuông chiều lan toà thật mênh mông! Nhớ cánh đồng vàng mùa lúa chín Vườn xanh chim hót thật thanh bình Trên sông quê chèo thuyền đi chợ Mặt trời lên ấm buổi bình minh! Trên đường xuân thật nhiều áo lụa Tà phất phơ như bướm thắm màu Những nụ cười hoa đời đua nở Mong tình ai vương vấn thật lâu! Quê hương ? còn chăng màu Tết cũ? Nhớ hoài!- nay phải gọi ?cố hương? Biệt phương trời lòng luôn ấp ủ Dẫu nơi nầy mù mịt tuyết sương. Ở đây thương tiếc, thật vô cùng Tết càng buồn thêm chốn lưu vong Chén rươu hoài hương sao đắng quá Lòng buồn?, khắc khoải nỗi chờ mong! Hàn Thiên Luơng
Mục Lục


3. Thơ Cho Ngày Lễ Tình Nhân
* VIẾT CHO NGÀY VALENTINE . Có lẽ xưa đường tu vụng dại Vung vãi tình giờ nghẹn đắng chữ yêu Ta nhìn người mà rậm rật bờ môi Cứ da diết vòng tay tình chồng vợ. . Ðêm rũ xuống. Ngằn ngặt niềm yêu đắng Chăn gối đơn rệu rạo đêm trường Ta rụt rè ngóng gió muôn phương Mà ứa lệ. Mà bẽ bàng cay đắng... . Tình yêu ơi sao xa xỉ thế Ðến bao giờ thoát khỏi bến mê Ðến bao giờ hết rầu rĩ tái tê Lại hối hả dệt mộng lành ân ái... . Ừ, đừng nói đạo người phải trái Tình bán mua soi kỹ làm gì Chót nhỡ nhàng phận hẩm duyên thiu Thì cũng cố vê tròn chữ nghĩa. . Thôi, ta mặc lời người độc địa Cố nín câm giữ biển lặng sóng ngầm Ta gồng mình giữ chặt vẻ trầm ngâm Chầm chậm bước giữ nhịp đời thật chậm.. . San niềm vui gom vội niềm cay đắng Ta cuộn mình sống hết kiếp nhân sinh. *. Hà Nội, đêm 14 tháng 02.2016 ÐẶNG XUÂN XUYẾN VALENTINE LẠNH . Lăn phải Lăn trái Cái chăn! Mày thật vô duyên Cuộn tròn mãi không đủ ấm. . Lật người sang phải Lật người sang trái Tại mày! Cái gối chẳng êm Cả đêm hại tao cả nghĩ. . Ờ nhỉ... Lại valentine Lẻ người Lẻ chăn Lẻ gối. *. Hà Nội, ngày 14 tháng 02.2017 ÐẶNG XUÂN XUYẾN THƠ VIẾT CHO TÌNH NHÂN . Biết rõ thơ tình ta thầm viết tặng ai Lại cứ dửng dưng như ta tặng thơ người lạ Giả bộ thở than trách ta khờ dại Ðem chân tình ký gửi phía trời xa . Yêu có tội gì? Yêu sao chẳng nói ra? Sống cuộc đời ta sao phải ngó trước sau thiên hạ? Trái tim đập không lụy lời lý giải Sao phải dằn lòng lời thiên hạ đúng sai? . Ðã biết rồi liệu cần nữa diễn tròn vai? Miệng thế gian chắn che sao hết được? Tim run rẩy sợ lo bởi mấy lần trầy xước Mắt nhung huyền còn thảng thốt lúc chiều vơi... . Ðã bảo rồi. Chẳng để nữa lệ rơi Khó khăn lắm thuyền mới về bến đợi Mở lòng yêu để đời thôi xốc nổi Ðể nụ cười ấm lại sáng bờ môi. *. Hà Nội, ngày 29.04.2019 ÐẶNG XUÂN XUYẾN

Ðặng Xuân Xuyến

Mục Lục


4. Mây Trời Lãng Du Còn bay mãi còn bay hoài Bởi em là phiến mây trời lãng du Trôi lang thang trôi lững lờ Tìm trong sương khói mịt mờ bóng ai Ðêm về khóc nụ hoa phai Nến tàn trăng lặn, hình hài chơ vơ Còn dăm giọt lệ hoen bờ Rớt xuống trang giấy, ướp thơ gởi người *Bởi em là phiến mây trời Hợp tan gió cuốn một đời mong manh Thanh Hà


Mục Lục


5. Cơn Mơ Ðã Rồi ! Nhớ em mười bốn tháng hai Gặp em cuối nẽo hoa mai còn vàng Tình ru cây khế rộn ràng Cho anh nụ ngọt nồng nàn yêu em Tháng hai mười bốn lại đem Ái xưa ân cũ rủ rèm chiêm bao Áo phai lụa úa trăng đào Thương vòng tay mộng lao đao nắng chiều Tháng hai mười bốn buồn nhiều Gió lay cành liễu tiu đìu đường tơ Anh ngồi đọc lại trăm thơ Ngờ đâu chớp mắt cơn mơ đã rồi! Nam Thảo


Mục Lục


6. Bước Vụng Bước vụng từng nhấc chân Một ngày đụng đá tảng Cạn đường nên quá nãn Vượt qua khó trăm lần * Ðời sống nhiều gian nan Không dễ gì giàu sang Nếu mồ hôi không đổ Mong hai chữ bình an * Bước vụng nên đi chậm Không cần phải đi mau Từ từ cũng sẽ đến Vội chi cho sanh bệnh * Bước vụng tuổi về già Chân không còn nhanh lẹ Xương xốp như hoa cà Té ngã thì mang họa * Bước vụng đi lòm khòm Tay luôn cầm cây gậy Chống đỡ thân héo hon Không có ai nhờ cậy * Bước vụng lên cầu thang Trợt chân té xuống sàn Nhức nhối, sưng đầu gối Chỉ còn ngồi xe lăn * Bước vụng có gì vui ? Ngồi nhìn trời ngậm ngùi Nhớ ngày xưa trai tráng Tung hoành đời ngược xuôi * Như cánh chim mỏi cánh Hết cơ hội bay cao Chỉ là đà dưới đất Nước mắt tự nhiên trào Bạch Liên THƠ CHỊ..?! Tôi không là thi sĩ Thích thả hồn ngao du Lắng nghe gió vi vu Thẩn thợ..ngồi suy nghĩ Mỗi mùa là một màu Xuân về hoa nở chào Hạ buồn trường xưa ...nhớ Ôị..Gia Long năm nao Thu về lá úa nhàu Cuống gầy nhói tim đau Lìa cành bay chao đảo Nuối tiếc tình đã trao Ðông về phố xanh xao Hoa bông gòn trắng phau Liếc nhìn qua song cửa Thấy sườn núi mọc râu Xuân chị..cỏ xanh rêu Hạ chị...nắng chọc trêu Thu chị..sương giăng phủ Ðông chi ...tuyết dệt thêu Bạchliên Chẳng Biết ! Dầm mưa dãi nắng da bánh mật Mặn mà thôn nữ thật là xinh Chợ làng nhóm họp đầu đình Thanh niên ngắm nghé tỏ tình cùng cô * Nhiều anh cứ ra vô lóng ngóng Chỉ mong sao thấy bóng cô nàng Tim thì loạn nhịp hoang mang Nói năng lấp lửng, ý càng lung tung * Lời luộm thuộm ngập ngừng, hoa mắt Miệng ấp a ấp úng từng câu Ngại ngần, lòng quá lo âu Phập phồng biết nói làm sao thành lời * Ngày từ giã anh rời huyện nhỏ Về Sài Thành nhiều ngõ loanh quanh Nằm trên gác trọ trăng thanh Mơ về cô bé hiền lành miền quê Ðồng bằng sông nước hiền hòa với ruộng đồng xanh bát ngát. Nhiều gia đình tạo dựng cơ ngơi ở vùng trời gắn liền với dòng sông ngầu đục lặng lờ chảy. Hình như tất cả người dân chân chất đều an phận với đời sống thanh tịnh, mộc mạc và đơn giản này. Khi nhắc đến miền quê thì chúng ta liền nghĩ đến quang cảnh bình dị, rợp trời với những cánh diều uốn khúc - khi ráng chiều thoa màu hoàng hôn. Trẻ nít túa xua chạy rong chơi từ nhiều gia đình đông con. Ngày xa xưa ấy, cha mẹ không bao giờ phàn nàn việc sinh nhiều con. Họ có ý nghĩ tự nhiên, con càng đông thì đó là năng lực trung thực nhất, phụ giúp cha mẹ ngày càng già yếu dần. Công việc đồng áng là chuyện đương nhiên bắt buộc con cái phải nối nghiệp cha ông của mình. Ðó cũng là gia tài được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Con trai trưởng phải gánh vác việc nặng nhọc nhiều nhất. Khi còn ở lứa tuổi ngây thơ, thì ai cũng cắp sách đến trường làng ở đầu chợ cho tiện việc đi và về nhà. Khi các cậu tí hon này lớn dần theo hơi thở của sông ngòi, thanh thanh niên trai tráng thì phải lên Sài Gòn vào trường Trung Học và Ðại Học. Ở lứa tuổi mới lớn, chập chững bước vào khung trời mộng mơ. Các chàng bắt đầu ngắm nghé, để ý các nàng xấp xỉ cùng trang lứa với mình. Miền quê thường khắt khe lễ giáo nên chuyện quen nhau, các cô cậu khó có cơ hội bày tỏ nơi đông người. Cả hai chỉ trộm nhìn nhau qua ánh mắt, thay cho lời nói trong trái tim, để cùng cho biết rằng?tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Ðến ngày anh chàng phải rời quê lên Sài Gòn đi học, cũng chỉ là lời nhỏ nhẹ thỏ thẻ mà thôi. Khi lên chốn phồn hoa đô hội, những anh chàng này thường muớn một căn gác nhỏ xíu để ở trọ cho thuận tiện đến trường. Một mình ngồi trong căn gác trọ đìu hiu, chàng thanh niên này làm sao mà không có những đêm trăng nhìn qua song cửa. Hồn lâng lâng thơ thẩn, mơ về cô thôn nữ mà mình đã thầm thương trộm nhớ ở góc trời xưa. Anh tự hỏi lòng mình: Duyên tình có bền lâu, chẳng biết ? Hỏi trời, ông chỉ liếc mắt cười Học đi cậu bé kia ơi Ông tơ, bà nguyệt nhắn lời cùng ta * Duyên trời định thật thà se thắt Sẽ thành đôi, giữ chặt tình này Tình yêu như trái chín cây Ðừng cho gió thổi, nó baỷmất liền ! Bạch Liên


Mục Lục


7. Tháng Giêng Buồn Thoảng nghe tiếng hạc kêu trăng Nhớ thời xưa ấy đêm rằm tháng giêng Vầng mây lả lướt che nghiêng Hằng Nga vẫn đó triền miên lững lờ Cuội ngồi ôm bóng bơ vơ Ru tình thơ giữa mịt mờ bao la Ngẫm ta như kiếp cuội già Lỡ tương tư dáng kiêu sa giữa đời Nỗi buồn da diết đầy vơi Bao năm vấn vít tình người chốn xa Xuân nay hương ngát la đà Cố nhân đâu hỡỉ-Mình ta đất trời Tháng giêng tình ái buông lơi Ðêm rằm trở bước xa rời ước mơ Sầu lên đỉnh nhớ thương chờ Theo trăng dõi bóng tình thơ lạc loài Viễn Phương Mùa Valentine Valentine mùa yêu thương muôn thuở Tạc chữ tình trao gởi đến người thơ Kết mây trôi ta dệt dáng em mơ Xây mộng ước dưới trời xa thương nhớ Hồng một đóa tặng em, đừng bỡ ngỡ Ép vào lòng hương sắc của yêu thương Dẫu xa xôi vạn nẻo, dẫu muôn phương Xin em giữ cuộc tình không biên giới Thơ anh viết một lần xin trao gởi Dòng thơ tình đậm nét chữ thương yêu Ðể mai kia em có nhớ nhung nhiều Nhìn nắng hạ cuối chiều thôi vương vấn Trăng trải bóng soi nghiêng đời hương phấn Ngây ngất trời nhan sắc bóng tình nhân Anh yêu em tình xa vẫn thấy gần Và yêu mãi trăm năm tình bất diệt Viễn Phương Bài Thơ Tháng Hai Thơ em viết tháng hai tình thơ mộng Ðã bao lần hoài vọng gởi trao nhau Lời yêu thương tha thiết mới hôm nào Em bẽn lẽn cuối đầu môi e thẹn Thơ tháng hai với dòng thơ uất nghẹn Lời thì thầm ước hẹn tận tim côi Ngóng chờ ai một bóng giữa xa khơi Mòn mỏi đợi cuối trời mây thăm thẳm Ta thương lắm một cành hoa tươi thắm Giữa vườn thơ vắng lặng ngóng chờ ai Gởi tin yêu theo gió bạt ngàn bay Rồi tự vấn!-Hỡi người xưa có nhận? Dòng thơ đã bao lần đi lạc vận Theo bóng đời lận đận lướt qua nhanh Giữ lòng thương cho dẫu có mong manh Ðường tình ái vẫn dài xa vô tận!... Em một thuở tơ sầu giăng mấy bận Ta mỏi mòn quanh quẩn mối tơ duyên Hỏi cao xanh sao mãi vướng ưu phiền Em nơi đó, ta đây tình muôn dặm

Viễn Phương
Mục Lục


8. Mấy Lời Trăng Trối Ðầu Xuân - Viết trong những ngày cấp cứu ở viên E Trước khi lên bàn mổ ( Bài thơ này tôi không kịp XB thành sách, xin gửi đời giữ lại hộ cho tôi ) Rồi mai ngày nhân thế ngợi ca ta Có biết thi nhân đang khổ nạn giữa sơn hà Chỉ muốn kết thúc cõi người cho chóng vánh Ôi, Số phận một thi hào! Chết cũng khó lắm thay? Ta muốn gọi trăm lần, tên đứa con yêu đã mất (1) Ðể lại giữa đời người cha cô độc Bệnh tật dày vò. Hỡi thượng đế linh thiêng! Mau cho tôi về chốn bồng-tiên. Sự nghiệp xong rồi, ta đi không nuối tiếc Bỗng lại phân vân về ý nghĩa cuộc đời này? Chỉ dành cho tham vọng ngút trời mây Nay đã hoàn thành. Khổ quá! Ðúng, sai không biết nữa? Sao không sống hiện sinh, làm giàu như bao nhiêu kẻ khác? Ðể hưởng kiếp này phè phỡn, rồi đi... Ừ, thì vượt lên trên thời đại - Ðã được gì ??? Mai dẫu vinh quang, nào sống đâu mà biết. Hậu thế ơi! Kiếp đại thi nhân nhưng cơ cực Nguyễn Du còn khóc gọi trăm năm (2) Dù tên Người hôm nay sáng láng tựa trăng rằm... Mai tôi về - Sẽ đến thăm Người, bà Hồ Xuân Hương, Các cố nhân cùng ông Hàn Mặc Tử Nợ đời đã trả xong. Lậy Ðức Quan Âm và Như Lai Phật tổ! Thánh anh linh giải thoát kiếp sống cho tôi Tôi đi vui. Càng nhanh đi càng sung sướng cuộc đời Chỉ còn cuốn tiểu thuyết viết xong rồi. Hẹn ra mắt thu đông - Sẽ bái biệt loài người, tôi nhắm mắt. Mấy lời trối trăng. Kết thúc đời thi nhân, vào kiếp khác Nếu mai người lập miếu cho tôi, Xin đặt trong khu vườn đền Quán Thánh ở thủ đô. Phạm Ngọc Thái Mồng 5 tết năm Nhâm Dần ( tức ngày 5.2.2022 ) ........ (1) Con trai tôi Phạm Ngọc Bảo đột tử, mất năm 27 tuổi. (2) Cụ Nguyễn Du đã than: Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ( Nghĩa là: Hơn 300 năm sau nhân thế, liệu ai người sẽ khóc Nguyễn Du? )

Phạm Ngọc Thái
Mục Lục


9. Ly Cà Phê Ðen Ðá (Viết theo đề nghị của anh Tài Huỳnh. Cám ơn anh đã gợi ý chủ đề ?Cà phê đen đá ?) Mỗi người có một sở thích riêng, Một kiểu cà phê anh đã quen, Anh ngồi ngắm cà phê nhỏ giọt, Từng giọt đời giọt cà phê phin. Anh chẳng thử cà phê Mocha, Cà phê sữa, Cappuccinỏ. Lúc nào cũng cà phê đen đá, Dù quán sang hay quán vỉa hè. Vào quán cà phê chuyện đời thường, Ngồi với bạn bè hay người thương, Anh không thích uống cà phê ngọt, Ly cà phê anh cho ít đường.. Anh cho đá vụn vào trong ly, Những mảnh đá trong như pha lê, Quậy đều với cà phê đậm đặc, Mùi cà phê thơm chưa bay đi. Anh quậy ly cà phê bâng quơ, Thìa chạm vào ly như chuyện trò, Trong lúc anh đợi chờ em đến, Ly cà phê cũng biết hẹn hò. Anh nâng ly cà phê nhấp môi, Thưởng thức vị đắng như mùi đời, Thưởng thức cà phê thơm mùi nhớ, Cà phê ơi và tình yêu ơi. Giản dị như tính cách của anh, Ly cà phê đen đá chung tình, Những khi lòng bâng khuâng trống trải, Anh nhớ cà phê và em không? Nguyễn Thị Thanh Dương. LẠI CÀ PHÊ THỨ BẢY. Một tuần trôi qua khi mình chia tay, Thứ bảy này quán cà phê gặp lại, la Madeleine bàn ghế nâu vẫn đợi, Mùì son em tuần trước vẫn đâu đây. Em dùng son môi hồng nhạt thơ ngây, Tô son bóng mùi nho vừa chín tới, Anh hôn em quên đời lòng bối rối, Chẳng biết môi em mùa trái cây nào. Anh vẫn thói quen uống cà phê nâu, Cà phê nóng có pha thêm chút sữa, Bàn tay anh những ngón dài nghệ sĩ, Bàn tay thong thả nâng ly cà phê. Em tôn trọng anh giây phút trầm tư, Và hiểu anh cả những khi khó hiểu, Thương anh ngồi uống cà phê sành điệu, Những lúc tình vui, những lúc tình buồn. Cà phê Mocha môi em ngọt mềm, Có mùi sữa, chocolate quen thuộc, Em thích bánh mì nóng ròn Baguette, Hai đứa điểm tâm vừa rẻ vừa ngon. Thứ bảy thơm có mùi bánh mì thơm, Mùi cà phê em nhâm nhi từng chút, Ngoài khung cửa chỉ cách nhau vài bước, Ai ngoài kia đang xuôi ngược cuộc đời ! Chúng mình trong quán hạnh phúc nhỏ nhoi, Giây phút bên nhau qúy hơn tiền bạc, Hai nhánh sông, hai tâm hồn hòa hợp, Em và anh quấn quýt chảy một dòng. Buổi sáng thứ bảy trời đẹp, người xinh, Dù thời tiết bốn mùa đều thay đổi, Dù quán cà phê khách hàng cũ mới, Em và anh vẫn thế chẳng đổi thay. Thứ bảy tuần trước, thứ bảy tuần này, Thứ bảy tuần sau chúng ta lại hẹn, Ly cà phê anh không thể nào cạn, Tình ngọt ngào em chẳng thể nào vơi. Nguyễn Thị Thanh Dương.
Mục Lục


10. Dư Âm Mùa Tết Dư âm mùa Tết Nhâm Dần Nghe tiếng hổ gầm thương núi nhớ sông Nhớ mùa chướng - sóng bổ gành Gươm thiêng biên cảnh ngồi canh giao thừả Ngày mồng Một nắng Ðêm mồng Hai mưa Nghe trống lân múa mà chưa hòa bình Nghêu ngao lính hát tang tình Chúc đồng loại, thôi đừng rình giết nhaủ Thuở nào chúa tể rừng sâu Bây giờ lỡ vận nỗi đau âm thầm? Nằm nghe chim núi sang canh Hót vang trên cành gọi chúa sơn lâm Mồng Hai nhạt nắng Mồng Ba mưa râm Khe Sanh rét đậm tuyết quầng Tà Cơn Pháo rền rung vách Trường Sơn Bóng ai chập chờn thấp thoáng đồi cây Nhớ làng quê nhớ đường cày Thương em dạn dày cấy lúạ..triền non Gió Tây cuốn bụi đường mòn Hầm hập chun lòn mù mịt trời mâỷ * Xuân về nhớ tết làng Chài Ngồi chờ tiếng Quốc gọi bầy năm xưả Nhâm Dần 2022 Sông Cửu Vài Câu Ðối, Liễn Tân NiênNhâm Dần 2022 _______________________________________________ 1.BICH CHƯƠNG ÐÓN TẾT * Tống tiễn Ngưu Tướng đồng bằng Mở đường ngăn dịch, chống ách đói nghèo Trồng hạt yêu thương gieo mầm xuân thắm * Mừng đón Chúa Tể Sơn Lâm Nhâm Dần hạ san xóa tan dịch Hán bạo tàn Giải cứu muôn dân vui Xuân an lành hạnh phúc! Sông Cửu 2. CÂU ÐỐI TẾT * Năm cũ Trâu thổi tù-và mài sừng rèn gươm ra quân chống dịch Xuân mới Hổ thiêng xuống núi xóa dịch Co-vit cho thế giới thanh bình * Ðầu năm Ngưu tướng vô Nam theo chiến thuật ?Chống dịch như chống giặc? . Cuối năm binh Trâu về Bắc bằng chiến lược ? Sống chung cùng với dịch", 3. LIỂN TẾT 1. TỐNG CỰU NGƯU HIỀN VỀ ÐỒNG MÀI SỪNG LUYỆN KIẾM NGHINH TÂN HỔ CHIẾN XUỐNG NÚI TRỪ DỊCH CỨU DÂN 3. TỐNG CỰU NGHINH TÂN TỐNG KHỨ TRÂU ÐIÊN MÀI SỪNG SỐNG CHUNG VỚI DỊCH TIẾP NGHÊNH HỔ CHIẾN XÓA CÔ-VIT MỪNG TẾT AN BÌNH. 5. LIỄN TREO HỘI CHỢ TẾT TẾT ÐẾN MỞ HỘI ÐẦU NĂM CHÀO XUÂN LY HƯƠNG NHỚ NƯỚC XUÂN VỀ HỢP MẶT CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT THƯƠNG CỘI GIỮ NGUỒN Hội chợ Tết 2022 Sông Cửu Mục Lục


11. Nếu Không Có Mùa Ðông 1-Nếu Không Có Mùa Ðông Ai bảo: Mùa Ðông đến không buồn mà hẹn... Tôi nói rằng Nếu không có mùa Ðông thì... . Nếu không có mùa Ðông Lấy ai ủ trái tim lạnh giá Chăn gối cô đơn buồn tê tái Trong màn đêm bao phủ cô phòng Nếu không có mùa Ðông Sao cảm nhận được lòng thương nhớ Người chiến sĩ xa ngoài biên giới Người thiếu phụ ôm con đợi chồng Nếu không có mùa Ðông Chiếc áo đan tay từ đầu Hạ Gởi cho ai trại tù cải tạo Nơi đèo heo hút gió lạnh lùng Nếu không có mùa Ðông Ai hiểu cảnh cơ hàn ngoài phố Em bé giao nhật báo run rẩy Ông lão bán xực tắc co ro Nếu không có mùa Ðông Nhạc sĩ sao viết được ca khúc Ðêm Ðông* với giai điệu day dứt Trên Ðỉnh Mùa Ðông* thật não lòng Nếu không có mùa Ðông Làm sao có một bài thơ buồn da diết Mang tên từ huyền thoại đã được viết : Mùa Ðông Trên Ðỉnh Tuyết Ki-li-man-ja-ro** Nếu không có mùa Ðông Chẳng còn cảnh tuyết rơi huyền ảo Lung linh bay cùng ánh đèn sao Ðêm Giáng-sinh trên tháp giáo đường Nếu không có mùa Ðông Cũng không ngọn lửa hồng Cho gia đình xum họp Cho hạnh phúc lên ngôi NẾU KHÔNG CÓ MÙA ÐÔNG THÌ ÐỊA CẦU CHÁY BỎNG LOÀI NGƯỜI SẼ TỒN TẠI, HAY VÀO CÕI HƯ KHÔNG? ChinhNguyên/H.N.T. , Aug.18.21 (466) Ghi chú :*- Ðêm Ðông/Nguyễn Văn Thương -Trên Ðỉnh Mùa Ðông/Trần Thiên Thanh **Mùa Ðông Trên Ðỉnh Tuyết Kilimanjaro/CN-HNT,2019 (Nguyệt san Giao Mùa #213) 2- Phút Giao Niên Xuân kề môi chén rượu nồng Quyện hương giòng tóc bềnh bồng nổi trôi Tỉnh say cõi mộng tình hồng Một vùng ảo giác có không vật vờ Lang thang giữa thực và mơ Chập chờn xoải cánh hồn thơ thoát trần Thiên Thai sánh bước cùng Xuân Ðê mê trước vẻ thanh tân diệu huyền Tiên nga giáng thế gặp duyên Rượu hồng hợp cẩn giao niên tình nồng ChinhNguyên/H.N.T. Tết Nhâm-Dần 2022 [501] 3- Valentine Như áng mây hồng in lên nền trời xanh ngắt Như giọt sương mai lóng lánh đọng trên cành Như đoá hoa tươi toả mùi hương thơm ngát Tất cả là Em _hồn trong trắng ngọc ngà Như chiếc lá khô ép trong tập vở học trò Như tờ giấy hoa bao quanh gói quà lưu niệm Như sợi dây màu buộc chặt kỉ vật con con Ðó là Tình anh-với-em, gia đình, bạn hữu... Valentine Day! biết nghĩ gì hơn thế Tỏ lời yêu thương êm ái ngọt ngào Trao đổi cho nhau những ngôn từ đẹp đẽ Chúc thật chân thành nâng hạnh phúc lên cao Valentine Day! thể hiện tình thân thiện Qua bàn tay xiết vòng ôm nồng nàn Ánh mắt dịu dàng ân cần tha thiết Ðể hình ảnh người in đậm trái tim ta Valentine Day! cũng dành một phút trầm tư Tưởng niệm những người đã chết Dưới lòng biển khơi vì hai chữ tự do Trong chiến tranh,thảm hoạ thiên nhiên,dịch bệnh... Cầu cho tất cả hồn linh được an bình miên viễn Tháng 2 /2022 (498)

ChinhNguyên/H.N.T.
Mục Lục


12. Ðường Xưa Mây Trắng Còn Bay Ði dưới nắng buổi trưa hè nhiệt đới Nghe trong tim sao lạnh buốt muôn trùng Xa đây lắm, người nghĩ ngợi mông lung ? Ðôi mắt biếc có đượm buồn hoen lệ Trời ở đây, chiều sấm gầm kể lể Xa người rồi mới thấy thiếu bàn tay ! Con đường dài có mây trắng, cỏ may Dẫn đến biển. Sóng thì thào kêu gọi Nguồn yêu thương là biển ? Tôi tự hỏi Biển cả đã cho tôi biết mộng mơ Tối đầy sao tìm đâu ra đường tơ Kết tôi & người vào cung đường duyên nợ Ngày đầu ánh mắt giao nhau bỡ ngỡ Ðêm về mộng mị chờ ngày mai sang Ðến với nhau ta đã tận hiến dâng Cả thanh xuân đốt hết cho cuộc tình ! Thời gian ơi kỷ niệm nay lặng thinh Con đường xưa còn bay bay mây trắng ? Bao hẹn hò trong những chiều ngập nắng Hạt bụi chân người còn sót trên tay ! Lê Miên Khương
Mục Lục


13. Khai Phím Ðầu Năm (Tây) Thơ viết chuyện đời thường qua một năm Thơ viết chuyện đời thường vẫn gỏ đều tay từng trang nhật thi vẫn thở nhịp đều thời loạn dịch cô Vi nói túm lại là: còn Thơ còn thở... cám ân Ðời còn tiếp nối dòng Thơ cảm ơn Trên cho bằng an nhịp thở ơn mũi chich ngừa kịp thời cứu khổ ơn mặt nạ dẫu có mờ mắt kính... ngày đầu năm mưa nghẹn rơi cầm chỉnh nắng ấm về xông đất mái Hiên Trăng tách cà phê thêm đường cho bợt đắng khai phím gỏ đều Bài Ðầu Năm[Tây]... dẫu Tết Tây không cữ kiêng chi cả nhưng chớ bỏ quên nếp.nhà.quệthói khai phìm đầu năm[Tây]chúc mừng năm mới phải trân trọng như ngày đầu Tết[Ta] ân nghĩa quê người đón nhận người xa từ xất bất xang bang chạy làng qua ở đậu ketchup hamberger sẵn lòng cho nương náu mấy mươi năm giờ... Mỹ(mà)da vàng!... cũng mấy mươi năm bò ngữa bò càng ngày cuốc bẫm cày sâu đêm nhớ về quê cũ nơi chốn một thời nói thiệt lòng không giú có tuổi thơ dìu dắt tuổi lớn khôn cuộc nương dâu thời trang nồi cơm độn khiến đói meo không biết đến bao giờ thêm phép nước lệ làng hành cho ná thở mới đành đoạn bỏ quê loạn chạy tới đây mấy mươi năm rồi!. Có sao nói vậy khởi lại từ đầu tay làm hàm nhai đâu có chuyện cứ hoài cưu mang mãi phải góp sức mình chia gánh nặng người cho ngày đầu năm[tây]mần bài Thơ nhỏ ôn cố tri tân thêm chuyện ngày qua quá nhiêu chuyện nói mần chi cho ngạ chút tự sự đời từ loạn cuộc bể dâu giờ ngồi dưới Hiên Trăng thoải mái vuốt râu râu chỉ ngấn mà ngấn đời nhuốm bạc vuốt mé tóc đã quá thời kiêu bạt sông hồ ơi còn nhớ bến bờ xưa... hồi dắt dìu nhau xa bến rách tưa ngỡ quá cảnh quá giang ai ngờ quá thiệt mấy mươi năm cứ ghé hoài ghé miết tới tận hôm nay thuộc diện...cư trú lì tới nổi tóc râu giờ bạc kiếp thiên di quê người nói nôm na là đất.lành.chim.đậu thôi thì cứ níu phên che rào giậu cho quên lửa ngo nồi cơm độn triền miên chỉ nhắc nhớ ngần thôi dòng đời ngẫu biến chuyện xưa nay như mừng tuổi đầu năm viết bài Thơ xong chờ con[cháu]ghé thăm mừng tuổi Ba[Ôn]còn Thơ là còn thở!... NHỚ TÌM NHAU HỒI NỚ... mấy ngày nữa là Tết rồi em nợ đã thấy bông ba đầy chợ á đông bánh Tét bánh Chưng thiệp Tết đỏ hồng củ Kiệu dưa Hành bánh mứt tràn lan mấy mươi năm rồi ăn Tết lang thang anh với em cứ dặm ngàn nỗi nhớ Tết quê nhà tụi mình còn mắc nợ chưa có lần về ngó lại hồi xưa ?...nhớ hồi xưa... từ khăn gói gió đưa anh dắt em đi bỏ Tết lại quê nhà tháng Giêng quê xa quê nhà cuối Chạp anh ưa mần Thơ tìm lạị..chuyện đời xưa... còn nhớ không em khi ngồi canh bếp lửa anh lén hun em một nụ nhớ đời tại vì tình anh ngại nói ra lời mới hun cái chọ..thơm nồi bánh Tết em son phấn khiến dương gian mê mệt buổi hẹn hò sáng mồng một đầu năm cái nắm taỵ..lì xì răng mà thầm lặng rớt xốn lòng anh thương quá rứa hè...? là rứa đó hồi hai mình còn trẻ tóc thề bay quấn quíụ..tóc rễ tre tay tháp bút nắm bàn tay nứt nẻ dấu hằn sâu thời hồ-thỉ-tang-bồng đang nửa chừng thì...tình ái rã đông thương hải trùng vi ngợp thở tang điền tuổi thanh xuân em bỏ mô mà mất biến hồ thỉ tang bồng anh đau nhục cách gì rứa là thôi tính từ đó trở đi có Tết chi mô dặm ngàn xa ngái Giêng Hai quê xa quê nhà Tết lại mấy chục năm rồi đành đoạn làm vui mần bài Thơ ni lén giú ngậm ngùi thương mái tóc thề bây chừ chớm bạc nhớ tóc rễ tre một thời kiêu bạt giờ cũng hùa theo lạc nẽo Tết quê nhà... BÀI RA GIÊNG ra Giêng chiến dịch chưa chịu ngừng vai-rớt-cô-vi còn xông xáo thế-giới-đại-đồng-đều bát nháo năm-châu-bốn-bể-gáo u đầu phố xá vắng teo rào phên giậu ta cũng thu lu một chỗ ngồi ông Trời chắc chịu đời không nổi rớt cho mấy trộ trả thù đời Nàng Xuân rét lạnh không thèm tới Hoa Xuân chẳng chịu hé nụ cười Hiên Trăng ngó bộ cũng biếng lười Năm Mới có chi đâu mà mới rứa thì vui Tết mần chi nổi cách ly cách chén quá đỗi phiền con cháu muốn về mà không tiện ngại cô vi... mừng tuổi lì xi... thôi thì một chắc môt nhâm nhi mần mấy câu Thơ mừng năm mới hiền thê ưng ý thì cứ tới chia chung ly(cối)Tết xa quê nói vui thôi chớ mần chi xuể một ly hột-mít cũng Xuân rồi chớ con với cháu chừ không tới thôi hai mình...cứ tới bến luôn... ôi chao tết nhứt chi cho rộn giữa thời loạn dịch bởi cô vi mần Thơ cũng mất phần thi vị câu chữ bông lơn chút...cho vui... Trần Huy Sao
Mục Lục


14. Hổ Phụ Sinh Hổ Tử HỔ PHỤ SANH HỔ TỬ ( Thơ Vui ) Bố Hèm nói với con trai Ði nhậu như bố ít ai sánh bằng Tiệc nhậu các bác còn hăng Nhưng bố nhất định khăng khăng về nhà Thằng con thấy bố đang ca Dáng đứng xiêu dẹo mà ra dạy đời - Bố nhìn con đây bố ơi Sáng nay ba lít con chơi tới chiều Ba lít có là bao nhiêu Trí khôn con sáng mọi điều con tinh. Bố Hèm nghe nói tức mình Ðâu dể bố chịu con kinh bây giờ - Bố còn sáng suốt lắm cơ Mắt bố còn thấy bên bờ dậu đây Ba người đi lại gần nầy Là bố chưa sỉn chưa say bao giờ. Vịn vai: - Nầy hởi bố ơi Hai người mà bố nhìn thời nên ba Vợ Hèm chóng nạnh bước ra Hổ phụ hổ tử thật là hổ ngươi Ðang đi chỉ có một người Bố con mầy thật .Trời ơi là trời !!! Nhật Quỳnh
Mục Lục


15. Dưới Cội Già So Ðũa Lửa chinh chiến thiêu tàn cây cầu khỉ Chị và em vội bồng bế ra thành Chưa kịp đi, chinh chiến đến thật nhanh Người tử trận hy sinh đền nợ nước. Rồi bảy lăm di tản buồn dấn bước Giạt trôi về Mỹ quốc chốn xa xăm Ðêm từng đêm chị ngồi khóc âm thầm Ðời son trẻ chị một lần dang dở. Thập niên chín mươi cùng về quê cũ Xây mộ anh yên nghỉ cạnh dừa xanh Bên dòng phù sa sóng vỗ chảy nhanh Rơi hàng lệ cầu anh về nước Chúa. Trơ dưới nắng một cội già so đũa Cây cầu khỉ lườn ván gỗ ngày xưa Vẫn vườn cau, tàu xanh lá hàng dừa Gà gáy dội nơi phù sa sông Cửu... Tình Hoài Hương
Mục Lục


16. Viết Ngày Tiễn TÁO * Vẫn quen với cảnh đời ly xứ Sống nương nhờ đất khách quê người Giữ trong lòng nỗi buổn thương nhớ Quê nhà nay cách biệt xa xôỉ Nhìn lịch 23 đưa Ông Táo Thấy lòng gợn chút nhớ thương buồn Ba Mẹ bây giờ và anh chị Có còn ai để nhớ để thương? Ba lau chùi bàn thờ Ông Táo Một bình hoa vạn thọ tươi vàng Dĩa bánh in, thèo lèo Ba cúng Một bình trà thắp sáng đèn nhang Cúng nửa đêm nhà trên yên vắng Khói nhang bay quyện thơm hương trầm Ba mặc áo dài nghiêm trang cúng Ba vái van nhỏ giọng thì thầm Bao nhiêu năm của thời thơ ấu Rất quen cảnh cúng kiến trong nhà Bây giờ một mình nhà vắng lặng Làm sao không buồn nhớ xót xa Tuổi bây giờ không còn bương chải Ði làm kiếm gạo để nuôi thân Vợ bỏ cõi đời con đã lớn Ở nhà riêng khó được sống gần Ngày tư ngày tết ngày kỷ niệm Ðều giống như nhau cũng một ngày Bước lặng lẽ trên đoạn đường cuối Sống hôm nay khó biết ngày mai Cuối năm cũng có chút thương buồn Vợ hiền yêu dấu thoáng dư hương Riêng tìm kỷ niệm vui mà sống Bước cuối đời mất hết tình thương? Thylanthảo 27-1-22 cố xứ * Những sợi mưa dịu mềm nhẹ rơi Trời thu mây xám lững lờ trôi Tháng mưới không biết quê nhà gió Thổi chướng về chưa? Tết tới rồi Sáng nay thức dậy bước ra sân Ðêm đã sắp tàn trời sáng dần Ðứng tựa bên hiên mưa rơi nhẹ Mắt xa xôi buồn nhớ bâng khuâng Sân trước nhà mấy cây so đũa Tháng nầy không biết đã ra hoa Gió chướng về đậu rồng đơm trái Canh chua tôm đất nhớ Mẹ già Ðậu rồng tôm đất bông so đũa Mấy cọng ngò om ớt sừng trâu Cơm gạo mới, đủ đầy anh chị Nhớ làm sao vị ngọt quê nghèo Mảnh đất cũ ngôi nhà xưa cũ Thuở hoa niên vui rộn tiếng cười Nhà bây giờ lặng buồn vắng vẻ Thâm tình lần lượt bỏ cuộc đời Nhà bây giờ chị tuổi lá lay Tóc trắng như sương đếm tháng ngày Chạy lạt một mình vui tụng niệm Nhang đèn hương khói cúng hàng ngày Lần cuối đốt nhang trước bàn thờ Buồn vui khó nói mắt ướt mờ Từ giã Ông Bà đi không hẹn Ngày về thân tộc chớ đợi chờ Tay ẵm con đi bên cạnh vợ Bước lần ra ngõ Mẹ trông theo Ðôi mắt Mẹ tàn đời vẫn nhớ Lệ mờ chân bước biệt thương yêu Houston tháng nầy trời dịu mát Gợn buồn thương theo cảnh giao mùa Chị bên nhà buồn hiu quạnh quẽ Em bên nầy lẻ bước gió mưa Nhớ Mẹ nhớ canh chua so đũa 30 năm vẫn khó trở về? thylanthảo 14-10-21 Bóng xế đường chiều * Tuổi bây giờ rất thường hay bệnh Bệnh rồi khó bình phục như xưa Nhớ một thuở dọc ngang đời lính Ðâu ngại gì sương gió nắng mưa Tạo hóa đã an bày mệnh số Thì làm sao chống cải mệnh trời Mình thương mình tự lo chăm sóc Kiêng uống ăn vui vẻ nhìn đời Sáng thức dậy ra sân đi bộ Hìt thở điều hòa khí ban mai Ra làm vườn cũng làm vừa sức Bởi bây giờ đâu còn sức trai Bước bây giờ cuối đời lẻ bóng Nhà vắng hoe thơ thẩn mình ta Nên rất ngại trở trời trái gió Quỵ ngã hôn mê theo ông bà Buồn nhớ lại quảng đường đã bước Vẫn rất thường trên lối chông gai Tàn cuộc chiến mạng còn giữ được Sau tội tù sống đến hôm nay Vợ siêng năng chăm làm phúc hậu Quanh năm làm việc chẳng hở tay Vẫn vui vẻ không hề đau ốm Làm sao ngờ có chuyện họa tai Vợ bỏ đi nát lòng tiễn bước Ôm sầu thương buồn nhớ khó nguôi Anh nhớ em nhớ từng chi tiết Vẫn thường tựa cửa mắt xa xôi Sáng dậy đốt nhang nhìn di ảnh 1 tách cà phê tách nước trà Ðọc kinh Ðại Bi Chú cầu nguyện Cho em siêu thoát cõi trời xa 26-10-21 Thylanthảo
Mục Lục


17. Bài Tháng Giêng Thế là mimosa đã nở Ðà Lạt đậm sắc xuân Tôi ngồi đây ngắm cảnh Cảnh mới với đoạn trường Con đường mòn tôi đi Thuở thanh xuân hiu hắt Bước chân nghe què quặt Rụng từng nhịp thời gian Bỗng nhiên lòng ngỡ ngàng Cái cuối đời là thế? Chẳng có gì có thể Xoay nhịp đập con tim Tất cả những lụy phiền Dồn hết về một chỗ Ðể chờ ngày khởi mộ Lặng lẽ đến không ngờ 2022 Tuyền Linh
Mục Lục


18. Người Ði, Xuân Có Về? Gío mây ơi ta hỏi câu này, Mấy chục năm rồi em ở đâu? Ðất trời nơi đây đà đảo lộn, Nắng Vàng yêu dấu có về không? Người đi, ngày tháng tràn nước mắt, Kẻ về, khắp nước một điêu linh. Tìm đâu cho thấy ngày xưa ấy, Lất phất quanh đây mảnh quần hồng! Ta nhớ mãi những ngày thơ ấy Nhìn trời cao núi thẳm mà mơ. Mơ có một ngày thanh bình đến, Ðón anh về cho đời nở hoa. Dâng cho mẹ nụ cười tươi mới, Rồi cho ai kia chiếc áo màu. Ðể người reo vui cùng trời đất. Và tiếng hát mãi mãi dâng cao. Tôi vẫn nhớ những ngày thơ ấy, Tay trong tay mẹ, bước đến trường, Lòng rộn rã, reo niềm vui mới. Có ai ngờ hơi thở chợt ngưng. Ðôi chân run run vào lớp học, Ðôi mắt trong đen bỗng đổi màu. Trời cao đất mới đều xa lạ. Ðứa trẻ cùng xóm phá lên cười. Kìa thằng V ăn, con Mai, cái Hạ, Thêm bọn ngổ ngáo, đánh vật nhau. Giờ tất cả là một lặng lẽ. Ngồi thẳng hàng như dãy mộ bia. Hôm trước hò hét vang làng xóm, Nay là mầm sống của ngày mai. Ôi! những dấu chân ngày mới lớn. Có bao giờ mờ khuất trong tim. Tôi vẫn nhớ những cành hoa đỏ. Nở như xác pháo giữa sân trường. Chờ một ngày hái hoa cho bạn, Như gởi vào lòng vạn ý thơ. Tôi vẫn nhớ ngày mưa tháng nắng, Mãi reo vui như sáo gọi đàn. Này cô giáo với tà áo mới. Kia thầy hiệu trưởng có roi mây! Rồi ngày tháng vội lớn lên mau. Sân trường làng vui thay chợ tết, Bạn xưa, tình mới kết đôi tay. Tiếng hò giọng hát vang trời đất. Ngọn cờ, sách vở rạng niềm tin. Tôi lớn lên trong tình thương ấy Tập vở này ghi dấu ngày mai. Sáng đến trường gọi mời con chữ, Chiều về nhà ghi chú bài văn Ngoài kia, ngày tháng dần thay đổi. Mới đó mà hè đã vội sang. Tôi lớn lên theo từng con số. Mải reo vui với bạn, bên thày. Chợt một ngày nhiều thay đổi lớn. Tôi bơ vơ đứng giữa sân trường Ở đó lá vàng thay nhau rụng, Tiếng hò tiếng hét vẫn quanh dây. Rồi anh tôi đã vào quân đội. Mấy hôm sau người bạn lên đường. Màu áo này có là hoa gấm. Ðể tuổi mộng đếm bước chinh y. Người đi trên vai một gánh Việt. Kẻ ở nghe pháo vọng ru đêm. Rồi anh tôi đỉ và đi mãi, Ai viết câu tử biệt, sinh ly. Cô bạn cũ vật mình trên đất, Tiếng khóc gào cho vỡ non cao. Ôi chia ly, sao đau đớn qúa. Mà tiếng súng diệt cộng chưa yên! Chờ đình chiến, mấy ngày ngắn ngủi. Niềm vui lớn, cả nước hân hoan. ?ầm, ầm?, Hồ ly say đạn pháo. Ðốt thành thị, phá nát làng quê. Tung cờ đỏ, búa liềm, mã tấu. Triệt lương tri, giết vạn dân lành Chỉ một đêm, hòa bình bốc cháy. Khắp phố phường, làng xóm điêu linh. Xương thịt người đem nuôi lũ kiến, Cánh hoa Vàng, biến dạng hình hài. Này Bến Hải, Cà Mau vấy máu. Kia Sài Gòn, Phố Cổ tan hoang, Rồi đất bắc, quê xưa đổ nát. Máu xương Việt chất mãi lên cao. Người Việt Nam trôi theo số mệnh. Chào giải phóng một loạt đạn Tàu! Ðón hòa bình, gặp dao mã tấu. Việt Nam ơi, rồi sẽ ra sao? Câu trả lời xem ra ngắn gọn, Ba mươi tháng tư* đoạn cuối đường. (30-4-1975) Kìa phương bắc, cờ tang khắp lối, Nơi bến Nam, nước mắt muôn nhà. Từ đây một tròng cho hai cổ, Nhà nhà, phố phố, một điêu linh. Việt Nam ơi, còn đâu Ðộc Lập, Tổ quốc ơi, mất dấu Tự Do. Người theo Cộng Hòa vào tù lớn. Kẻ vác búa liềm đã nên quan! Thế mới hay: Cờ đỏ mê say dòng máu chảy, Dân Việt tang thương chết giữa đường. Hoa Vàng trên cao đà khuất bóng, Lá Ðỏ tung ra một búa liềm. Người đi, đi mãi không về nữa. Còn đây, dép lốp, đàn chó hoang. Lời thơ nhắc nhở ngàn đau đớn, Bão táp quê tôi thật phũ phàng? Rồi trên mảnh đất đau thương ấy, Tìm đâu cho thấy những tiếng cười? Này đoàn con trẻ, giờ đã lớn, Hỏi xem Người đi, Xuân có về? 9-2021 Bảo Giang
Mục Lục


II . Văn___________________________________________________________

1. Texas Nhõng Nhẽo


Nguyễn Thị Thanh Dương


Mùa Ðông Texas năm này đã có những ngày đẹp như mơ. Bước vào đầu tháng hai năm 2022 mà trời vẫn nắng nhè nhẹ, thời tiết ấm áp loanh quanh 70 độ F, Thế mà bỗng đâu tin thời tiết thay đổi đột ngột: Thứ tư Feb. 02 ? 2022 nhiệt độ xuống thấp 40 mấy độ và thứ năm sẽ lạnh hơn 20 độ có tuyết làm?băng giá trái tim tôi ( và chắc là băng giá trái tim cả toàn dân Texas nếu vùng họ cùng chịu ảnh hưởng thời tiết này)

Sáng thứ năm tôi thức dậy vén màn cửa ra. Lạnh và buồn biết mấy vì tuyết phủ trắng những mái nhà hàng xóm, tuyết trắng xóa ngoài vườn, không cao lắm nhưng cũng đủ che lấp cả khoảng sân cỏ, chẳng thấy cỏ đâu tưởng như nơi này là bãi tuyết.

Những năm xưa, ở tiểu bang khác, những mùa tuyết tôi đã từng hào hứng với bao cảm xúc, tuyết lạnh thì có tôi áo ấm khăn quàng đi ra ngoài chụp hình. Bây giờ tuyết vẫn đẹp như xưa mà lòng tôi thì thay đổỉchỉ sợ ra ngoài sẽ bị cảm cúm nhất là mùa dịch Covid này.

Texas mà có tuyết thì như một... biến cố..

Vào đọc email bạn bè, một chị ở Austin cũng post lên tấm hình tuyết trắng ngoài vườn với mấy câu thơ than thở. Một chị ở Houston cũng thở than vì tuyết rơi.

Thứ sáu tôi đi chợ, nếu hôm nay không cần mua thêm mấy món đồ tôỉ. chẳng thèm bước chân ra khỏi cửa. trời có chút nắng, nhiệt độ tăng lên 32 độ bù cho hôm qua tuyết rơi lạnh lẽo.

Ngoài sân tuyết vẫn còn nằm lì ăn vạ, đường đi thì đông đá trơn trượt tôi vốn lái xe chậm nay có lý do thêm chậm chắc không ai đi sau xe tôi nỡ bóp còi thúc giục.

Ði xe như rùa bò đến chợ Việt Nam, hàng hóa lưa thưa đã đành vì ngày tết âm lịch đã bán nhiều hàng và vì nhân viên còn đang nghỉ tết.

Ðến chợ Kroger thân quen, đậu xe xong tôi lê từng .. bước thầm trên lối đi tuyết phủ đóng băng và gió lạnh, từ bãi parking vào được trong chợ chưa kịp mừng thì phát giác ra không có chiếc xe đẩy nào cả, tôi sẽ mua nhiều thứ không thể xách giỏ mỏi cả tay và mất hứng thú thảnh thơi mua sắm. Tôi lại phải lò mò bước trở ra bãi parking để tìm một chiếc xe đẩy. Nhân viên chợ Kroger hôm nay làm ăn lười biếng quá, ngày thường họ đã nhanh chóng thu hồi xe ngoài bãi parking đẩy vào trong phục vụ cho khách hàng rất là chu đáo..

Vào trong chợ Kroger tôi lạỉ giật mình vì hàng hóa không nhiều, quầy thịt, quầy bánh ngọt close . Hỏi ra vì ...nhân viên nghỉ ở nhà tránh tuyết, không dám đi ra ngoài. Người ta mua sắm như sắp đến ngày tận thế, quầy đồ khô lỏng lẻo hàng, quầy bánh mì sandwich xưa nay luôn chất chồng đầy đủ các loại bánh mì hôm nay cũng thưa thớt hẳn ra. Chắc chắn là vì hôm nay thiếu nhân viên, hèn gì những chiếc xe đẩy vẫn nằm mấy đống ở bãi parking và khách hàng phải tự ra mà lấy.

May quá, quầy sữa tươi vẫn có nhân viên làm việc. Tôi thích uống sữa nhử baby cần sữa không thể thiếu.

Ði chợ xong lái xe về đến nhà an toàn tôỉ thề không ra khỏi nhà cho tới ngày tuyết tan.

Chị bạn cùng xóm Arlington gọi phôn than van, chị ...đau khổ vì tuyết vì lạnh hơn cả tôi, chị nói:

- Tao muốn dọn khỏi Texas cho rồi, năm ngoái có tuyết, năm nay lại có tuyết.

Tôi khuyên chị như khuyên mình:

- Chị ơi, Texas mình nổi tiếng là xứ nhiều nắng nhiều nóng rồi, hiếm hoi lắm mùa đông mới có tuyết, em cũng rầu rỉ lắm, nhưng .. dọn nhà đi đâu bây giờ. Ðến Las Vegas hả? để tránh tuyết phải chịu đựng mùa hè nóng kinh hồn sao !!

Tôi biết chị giận hờn Texas có tuyết nên nói lẫy thế thôi. Người thân của tôi ở Canada, ở Utah mỗi mùa đông vẫn bình thản đón tuyết, tôi có nghe họ than thở gì đâu. Năm nay bão tuyết lớn đang xảy ra ở vùng Ðông Bắc nước Mỹ kìa, Buffalo New York tuyết rơi nhanh và nhiều lên đến 7 inches, City phải khuyên người dân không travel đi đâu hết. Nhiều nơi mất điện, thật kinh khủng.

Buổi chiều thứ sáu thành phố Arlington thông báo ngày mai thứ bảy ngày lịch trình đổ rác nhân viên sở vệ sinh nghỉ làm việc vì tuyết đông đá. Thế là những bao rác trong thùng rác nhà tôi sẽ không được chuyển đi, rác cũng như chủ nhà? đợi tuyết tan

Buổi tối tôi gọi phôn kể lể những "vất vả" vì tuyết rơi với em gái ở Canada, cô nàng chẳng một lời chia sẻ an ủi mà bật cười ngon lành:

- Dân Texas nhõng nhẽo quá, chị cũng nhõng nhẽo quá. Ở cái xứ nắng nóng mùa đông không có tuyết, chỉ thỉnh thoảng mùa Ðông nào dở chứng mới có tuyết ghé thăm mà dân Texas không welcome gì cả. Mới có tí tuyết, tì đóng băng mà đã nhốn nháo, thổn thức than trời trách đất và làm mình làm mẩy. Cho Canada của em tí tuyết rơi ấy đi, chút thời tiết từ 20 mấy độ đến 30 mấy độ F. ấy đi là em ăn mừng liền.

Trưa nay thứ bảy Feb. 05- 2022, khi tôi đang ngồi viết những dòng này thì ngoài sân trước và sân sau tuyết đã tan gần hết, chỉ còn vài mảng tuyết lẻ tẻ bám trên góc cỏ sau vườn hay trên góc lề đường đi. Tôi bỗng ba phảỉlưu luyến thương tuyết trắng quá, mới hôm kia mênh mông nay đã ?tan chảy về đâu hỡi tuyết ơi?

Và chị bạn của tôi nữa, hôm qua hờn dỗi đòi dọn đi khỏi Texas chắc chị cũng đang hối hận vì đã ..lỡ lời, đã quá nhạy cảm chỉ vì chút đổi thay của thời tiết mà trách móc Texas nơi minh yêu thích và đang an cư lạc nghiệp bấy lâu nay.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Feb.05- 2022)




Lộn Phòng




Tay xách nách mang tôi quàng giỏ vào vai, hai tay nâng niu bưng bình hoa hồng đỏ thắm bước vào cửa chính của bệnh viện, đứng xếp hàng sau ba người theo đúng luật của mùa Covid. Ðến lượt, tôi khai:

- Tôi đến thăm bệnh nhân phòng 4103.

Anh nhân viên bệnh viện check nhiệt độ của tôi và hỏi vài câu liên quan đến an toàn Covid rồi ghi tên tôi, ghi số phòng 4103 vào cái Visitor band xong đeo vào cổ tay tôi và chỉ lối đến thang máy lên lầu 4.

Lòng tôi vui vui vì chốc nữa sẽ gặp người yêu của tôi. Anh nằm bệnh viện mấy ngày nay tôi mới có dịp đến thăm anh, mà lại đến bất ngờ chắc anh sẽ ngạc nhiên và vui lắm.

Tôi tìm dãy phòng và số phòng của anh không khó khăn gì. Ðứng trước phòng số 4103 tôi sửa lại điệu bộ làm duyên làm dáng và chuẩn bị sẵn một nụ cười tươi như những đóa hồng này và đẩy cánh cửa bước vào. Thấy tấm màn che giường bệnh tôi kéo rẹt một cái cho anh nếu đang ngủ sẽ giật mình thức dậy và thấy tôi anh sẽ?. bàng hoàng tưởng trong mơ.

Nhưng tôi mới là kẻ?giật mình, nghe tiếng động mạnh một anh Mỹ đen to kềnh ngơ ngác nhìn tôi và cố ngồi nhỏm dậy. Tôi cũng ngơ ngác và bối rối:

- Tôi xin lỗi ..đây là phòng 4103 ?

Bệnh nhân đáp:

- Phải, phòng 4103. Nhưng... cô là ai ?

- Tôi cũng đang tự hỏỉanh là ai mà lại ở đây ?. Ðể tôi xem lại..

Tôi mở túi lớn lục tìm, bới tung mọi thứ vẫn không ra mẩu giấy, lại mở cái bóp nhỏ lục lọi mới thấy mẩu giấy nhỏ gấp làm tư tôi đã ghi số phòng của anh mà người nhà anh đã cho tôi. Số phòng là 4301 Tôi quay ra vô cùng ngượng ngùng:

- Xin lỗỉ ..xin lỗỉ..tôi đã vào lộn phòng 4103 thay vì 4301.

Biết đã xong chuyện bệnh nhân từ từ nằm xuống, nhìn anh Mỹ đen to cao đang đau ốm mệt mỏi nằm truyền những ống dịch gì đó dây dợ đầy trên người tôi càng thấy mình có lỗi nhiều. May mà anh ta hiền lành và đang yếu ớt nằm trên giường bệnh với chùm dây dính trên người, nếu bình thường và gặp thứ dữ dằn thì anh ta đã?xông ra cho tôi ăn đòn vì cái tội xông xáo bất ngờ, bất lịch sự này rồi.

Tôi đã làm phiền mà anh ta không hề cau có nhăn nhó bực mình, vẫn cố gắng ngồi đối đáp nhã nhặn với tôi. Tôi cảm động quyết định nhanh chóng để bình hoa hồng đỏ trên chiếc bàn đầu giường của anh và rất chân thành:

- Bó hoa này tôi tặng anh và chúc anh hồi phục sớm .

Bệnh nhân có vẻ ngạc nhiên, tôi hiểu ý anh nói ngay:

- Không có hoa hôm nay nhưng tôi sẽ còn dịp khác thăm và tặng hoa cho người phòng 4301 của tôi. Anh nhận nhé, bó hoa này là của anh.

Anh ta mỉm cười, trong ánh mắt có niềm vui vì món quà tặng bất ngờ:

- Cám ơn cô.

..........
Dưới cổng chánh của bệnh viện cô Anna đang bước vào . Cô là visitor vài lần nên kinh nghiệm khai nhanh với nhân viên bệnh viện:

- Tôi là Anna, thăm Jacob bệnh nhân phòng 4103.

Nhân viên bệnh viện nhìn vào sổ và từ chối:

- Mỗi lần chỉ một người vào thăm, không tụ tập nhiều người trong phòng bệnh được. Cách đây vài phút có một cô đã ghi tên vào thăm phòng 4103 rồi.

Cô Anna ngạc nhiên:

- Anh nhìn lại sổ xem lầm lẫn gì không?

- Không, không có vẻ gì là lầm lẫn cả, cô ta mang theo một bình hoa hồng đỏ xinh đẹp mà khi tôi đeo cái visitor band ghi số phòng 4103 vào tay cô ấy tôi còn phải đỡ phụ bình hoa nữa mà.

Mặt biến sắc cô Anna hỏi lại:

- Cô gái với một bình hoa hồng đỏ đến thăm phòng 4103?

- Ðúng thế. Nên cô phải chờ khi cô ta thăm xong sẽ đến lượt cô. Vì tình trạng dịch bệnh Covid đang gia tăng nên chúng tôi phải có luật lệ này.

Cô Anna cố giữ nét mặt bình tĩnh năn nỉ:

- Bệnh nhân phòng 4103 đang đợi tôi đến với món thịt bò hầm cho anh chiều nay để anh mau phục hồi sức khỏe. Tôi đoán là cô kia thăm cũng sắp xong rồi. Làm ơn, kẻo món súp bò của tôi nguội mất ngon.

Anh nhân viên động lòng:

- Thôi được, cô vào đi..

Anna tất tả đi ra khu thang máy. Cơn giận cô cố kìm nén bây giờ mới được dịp trào ra. Thì ra Jacob của cô đã thầm lén có một người tình, cô ta đã đến thăm Jacob. Hôm nay Anna đến đúng lúc sẽ nhìn mặt tình địch và lột mặt nạ giả dối của Jacob ra, kẻ từng nói yêu cô và sẽ cầu hôn cô nếu không vì tai nạn phải vào bệnh viện cả tuần nay.

Anna đẩy cửa phòng 4103 bước thẳng vào trong, thấy Jacob đang nằm và bình hoa hồng đỏ chình ình trên đầu giường đang nhìn Anna như khoe khoang và khiêu khích. Anna tức giận lớn tiếng:

- Anh vừa tiếp người tình bí mật của anh phải không? Cô ta biến đâu rồi?

- Em nói gì thế, anh đang nằm đợi em đây.

Anna quắc mắt chỉ thẳng tay vào bình hoa vô tội:

- Ở dưới cổng vào bệnh viện suýt nữa người ta không cho tôi vào vì đã có một cô mang hoa Hồng vào thăm phòng 4103, chứng cớ còn đây.

Nàng mở cái giỏ xách tay và lôi ra hộp bò hầm đậu còn nóng:

- Tôi sẽ đổ những thứ này vào thùng rác trước mặt anh đấy. Anh không xứng đáng nhận những công lao tâm tình này của tôi.

Jacob vội cản:

- Khoan..khoan Anna ạ.Hãy bình tĩnh nghe anh giải thích.

Jacob nhanh chóng kể lại chuyện cô gái đi lộn phòng. Nghe xong Anna vẫn khăng khăng:

- Chuyện lộn phòng thì có, nhưng cô ta để lại bình hoa thì khó tin. Anh sáng tác kịch bản chưa hoàn hảo..

- Em yêu ơi. Cô ta muốn chứng tỏ đã biết lỗi và bó hoa là ý đẹp của cô ấy.

Nhưng Anna vẫn đi sồng sộc ra cửa. Jacob hốt hoảng hỏi với theo:

- Em đi đâu Anna?

- Tôi sẽ đến phòng 4301 nếu quả thực cô ta thăm bệnh thì vẫn còn ở đó, mà dù không còn, tôi cũng có cách hỏi cho ra lẽ..

************

Tôi kể cho anh nghe chuyện đi lộn phòng và xin lỗi anh bình hoa đã bất ngờ tặng cho người khác. Chàng trìu mến thông cảm:

- Em đến thăm anh đã là triệu đóa hoa Hồng rồi, anh cần gì một bình hoa.

Và chàng hù dọa:

- Chỉ sợ vợ con hay người yêu của anh ta lát nữa vào thăm sẽ nghi ngờ thắc mắc cô nào đã âu yếm tặng bình hoa hồng đỏ xinh đẹp này thôi. Em tặng hoa kiểu này có khỉmang họa cho người nhận đấy.

Vừa lúc có tiếng gõ cửa và Anna bước vào, thấy một cô gái trẻ đang ngồi chuyện trò thân mật với người bệnh trên giường. Anna hạ giọng thăm dò:

- Xin lỗi, tôi là Anna đã đường đột vào đây. Tôi muốn hỏi có phải cô là người đã đi lộn phòng 4103 lúc nãy ?

Tôi và chàng cùng nhìn nhau, cùng linh cảm sự việc "chẳng lành", anh nói "linh" thật. Tôi bối rối chưa kịp đáp thì anh đã thay thế tôi:

- Vâng, đúng thế, người yêu của tôi vừa kể tôi nghe và đang xin lỗi tôi vì bình hoa đã để lại phòng 4103 tặng cho bệnh nhân ấy.

Bao nhiêu cơn giận của Anna trong giây phút này tan biến hết, Anna cảm thấy nhẹ lòng, cô bẻn lẻn và cảm kích đáp lời:

- Tôi đến đây để .để ..nói lời cám ơn cô đã tặng hoa và chúc Jacob của tôi mau khỏe.

May quá, chàng nói thì cô Anna mới tin, chứ thái độ cô đến đây là biết vì ghen rồi, với gương mặt chẳng mấy hiền lành kia, với vóc dáng to cao kia thì không biết cô Anna sẽ nổi giận thế nào, chắc gì cô để yên cho tôi giải thích minh oan. Tôi vẫn chưa kịp nói gì Anna lại nhanh nhẩu nói tiếp:

- Tôi cũng chúc người thân yêu của cô mau khỏe .

Bây giờ mới đến lượt tôi, thở phào trong lòng và vui vẻ đáp lại:

- Cám ơn Anna. Thế là cả hai bệnh nhân, hai người thân yêu của chúng ta đều nhận được lời chúc lành nhờ chuyện... tôi đi lộn phòng. Hi vọng các anh ấy sẽ chóng bình phục Anna nhé...


( August, 02, 2021)

Nguyễn Thị Thanh Dương

Mục Lục


2. Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhìn

Tình Hoài Hương


------------------------------------------------
Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhìn
Phần Thứ Nhứt
Chương 17
1/* Ðại cương về:
Thắng Cảnh ÐÀ LẠT Thương Yêu
Tình Hoài Hương
*

Ðây! Thành phố ÐÀ LẠT tuyệt diệu luôn mờ mờ ảo ảo lả lơi buông bức rèm thiên nhiên diễm kiều, ẩn hiện nhạt nhòa sau làn sương ẻo lả, mỏng manh. Khúc xạ ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua lớp khí quyển ướt ẩm, khô, lạnh, đã tỏa bảy tia quang phổ: đỏ, vàng, lam, chàm, lục, cam, tím. Mưa phùn phản chiếu tia nắng ở góc nhọn 42 độ, tạo thành chiếc cầu vồng ánh đẹp rất rõ. Ðám mây mọng nước nũng nịu ẻo lả giăng tơ trời kéo lê thê sau lưng ngôi trường Grand Lycée Yersin.

Tôi thơ thẩn thả gót phiêu bồng đi mãi miết trong lòng đô thị tĩnh mịch khi phố đêm len lén tràn về, ướt sũng từng cơn mưa phùn đậu trên mái tóc bện quyện lại với nhau, thì về khuya dường như bầu trời càng lắng đọng im ru bất tận, yên ắng lạ lùng ghê rợn ; cảnh vật trở nên thơ mộng giữa khí lạnh tê tê, buốt buốt, dịu dàng mơn man vuốt ve da thịt. Những thứ đó đã trìu mến quấn quýt ăn sâu vô lòng người. Ðà Lạt càng dễ yêu, thi vị, duyên dáng, thơ mộng quyến rũ xiết bao bừng dậy nơi nơi!

Ðà Lạt an ngự ở miền Cao Nguyên Trung-phần trên độ cao 1.475m (nếu Ðà Lạt trên cao độ 2.163m > tính từ mặt biển lên chóp đỉnh núi Lâm Viên). Ðà Lạt ở tọa độ 11/o 48? 36? ? 12/o 01? 07? vĩ độ Bắc và 108/o 19? 22? - 108/o 36? 27? kinh độ Ðông. Ðà Lạt: Bắc giáp Lạc Dương. Ðông & Nam giáp Ðơn Dương. Tây Nam giáp Ðức Trọng. Ðà Lạt là vùng khí hậu Á Ôn, nhiệt độ trung bình một ngày khoảng: 17/oC > 20/oC, thấp là 9/oC. Khí hậu Ðà Lạt rất thoáng mát, trong lành dễ chịu, ưu đãi đối với phụ nữ và trẻ em: da họ luôn trắng trẻo hồng hào mịn mượt. Ngoài cư dân tứ phương quy tụ về vùng ?hoàng triều cương thổ? Lâm Viên, còn có sắc dân: Thái - Thổ - Nùng ? Tày ? Mường ? Mán - Hoa (Tàu) - Thiểu số: K?Ho - Mạ - Chu Ru ? M? Nông.

Thị xã Ðà Lạt nằm trong Tỉnh Tuyên Ðức bao la rộng lớn, gồm có ba Quận: Ðức Trọng. Ðơn Dương. Lạc Dương. Ðà Lạt là vùng đất đỏ bazan và nâu-vàng; tụ bồi phù sa phì nhiêu từ suối, hồ, thác. Không những Ðà Lạt là thắng cảnh thiên nhiên thơ mộng rất ngoạn mục, diễm lệ, trữ tình? mỗi khi du khách ghé tạt về thăm, mà Ðà Lạt giàu về tài nguyên quốc gia quý như: Gụ, cẩm lai, sao, tre, nứa, lồ ổ nhiều rừng thông (ngo) bạt ngàn hai lá, ba lá cao ngút, rừng hỗn giao lá rộng, rừng lá kim, rừng tre nứa... Toàn tỉnh Tuyên Ðức có độ 20 loại khoáng sản: cao lanh, than nâu, boxit, than bùn, sắt, ruby, saphia, opal, bentonit, diatomit, vonfram, đất sét, núi đá, thiếc, chì, kẽm, vàng, thạch anh tinh thể, v.v? Kể cả các vùng núi rừng có rất nhiều vàng non... ở vùng núi đồi hiểm trở ở Taing xa hun hút.

Ðà Lạt có hai mùa rõ rệt: nắng và mưa. Mùa mưa dầm từ cuối tháng Năm kéo dài tới khoảng giữa tháng Mười Hai. Mùa gió thịnh hành là mùa Ðông lại là gió từ hướng Tây. Tuy vậy khí hậu vùng Cao Nguyên Lâm Viên khá dễ chịu xen lẫn độ ẩm. Mùa ráo khô từ tháng 12 >> đầu tháng 5, bầu trời thanh thoáng mát rượi, luôn có nắng ấm độ ẩm chan hòa. Thương làm sao thành phố Ðà Lạt chập chùng uốn lượn quanh những đồi thấp núi cao luôn mờ mờ ảo ảo, nhạt nhòa ẩn hiện sau làn sương ẻo lả, mỏng manh.

Mùa Xuân ấm áp rực rỡ với những đồi hoa Anh Ðào, những con đường đầy hoa Mai nở rộ, tới những ruộng bông muôn sắc muôn màu. Mọi người vui vẻ tưng bừng hẹn nhau lên chùa hái lộc, đi du xuân, chúc Tết, tiệc tùng, v.v... Nước ban mai ở các khe đá, suối, hồ, khe, chưa chảy kịp, thì nước buổi chiều đã dâng lên cao chảy xối xã suốt tháng năm về bao con thác ở cuối nguồn. Cơn say gió bão dật dờ muà Ðông cũ đã qua mà còn luyến tiếc, len lén đem khí lạnh ào ào bay về, nắng lấp ló ve vuốt bên thềm năm mới; như trêu nghẹo nàng Xuân se sẻ ỏn ẻn chúm chím nụ tình.

Mùa Hè là đầu mùa mưa, mưa đêm nầy qua ngày tháng khác trên núi đồi cao ngất, ngút ngàn. Muôn triệu hột mưa nặng trĩu, to tròn rơi bồm bộp trên mái tôn, mái ngói. Tôi yêu tháng ngày mưa dầm không biết mệt, bầu trời luôn ảm đạm, dù mưa nhưng khí hậu ấm áp. Thỉnh thoảng lâu thiệt lâu có kèm theo mưa đá hột to hột nhỏ. Dì cháu tôi thích thú lượm mưa đá bỏ vô ly (trong khi những người làm vườn thấy mưa đá, là họ lo lắng buồn phiền rầu rĩ; vì nó hủy hoại tan nát hư hỏng rất nhiều cây trái bông hoa và rau.

Mùa Thu bên những triền đồi rưng rưng lá vàng lắt lẻo đong đưa cài trên cành cây cổ thụ. Màu vàng của rừng cây gỗ quý quyện lẫn màu xanh và nhạc thông vi vu rì rào reo trong gió. Lá rừng hợp với màu vàng sáng từ bình minh len lỏi rọi xuống, hoặc nơi ráng chiều hiu hiu hửng lên xuyên qua kẽ lá. Những cơn mưa phùn lăn tăn từ độ cuối Thu nhỏ li ti như bụi phấn, nhẹ tênh, âm thầm lả lơi đậu trên mái tóc lữ hành. Khiến lòng mình cảm thấy xao xuyến mấy nỗi bâng khuâng man mác, dìu dặt đường tơ mênh mang rung lên từng hồi trên những phím loan.

Tôi thương mỗi chiều gió mùa Ðông Bắc lồng lộng vút trên đỉnh núi cao, sấm sét chớp lia lịa ở góc trời lúc choạng vạng, gió uốn cong cành cây mimosa nghiêng ngả dường như muốn gãy, thân cây đau đớn rên rĩ vặn mình kêu rắc rắc. Chùm hoa mimosa ướt sủng nước rên rĩ quật lui quật tới đã tả tơi, hòa với tiếng sấm chớp gầm rú dữ dội, thấy mà thương. Gió hú từng hồi kinh dị trên sườn đồi, gió lọt qua khe cửa rít lên vút vút nghe ớn lạnh, buồn bã đơn điệu vô cùng. Gần về cuối Ðông trời vần vũ mây xám, từng cuộn mây nặng trĩu ùn ùn bay ngang đầu, khiến núi đồi mất hết rồi bộ cánh rừng xanh tươi ngày vui khoe sắc lá. Những cơn mưa lăn tăn chuyển thành triệu triệu hạt nhỏ, nhẹ tênh như bụi phấn, đó là những cơn mưa phùn đơn điệu âm thầm lả lơi, cố níu giữ thời gian ngừng trôi để đậu trên mái tóc lữ hành.
***
HỒ : Ðà Lạt! Thắng cảnh tuyệt vời có nhiều hồ dễ thương, thi vị, hữu tình. Nào là: hồ Lãn Ông nho nhỏ be bé xinh xinh và khiêm nhường ở đầu góc đường Cộng Hoà & đường Võ Tánh. Hồ Mê Linh (còn gọi là Cité Saint Benoit ở Phường 9). Hồ Vạn Kiếp (ở Phường 7) an tọa bên đồi thông ngút ngàn. Hồ Chi Lăng tuy nhỏ nhưng mơ màng không kém thơ mộng. Tại Phường Ba có hồ Tuyền Lâm thường mệnh danh ?Nam thiên đệ nhất hồ? (xa Ðà Lạt 7km, qua thác Datanla Nia 2km là tới hồ Tuyền Lâm) - Hồ ông Phỉ ở hướng Dinh Ba ở khu đất mã thánh (xưa là ?Ba Lẻ). Mỗi hồ mang một dáng vẻ kiêu sa & vinh sang riêng làm sao kể cho xiết... Nhưng có mấy hồ rộng mênh mông và thơ mộng mơ màng đáng kể nhứt là:
* Hồ Xuân Hương quyến rũ là do hồ an lạc ngay trung tâm thị tứ, là ?cái rốn? của thành phố, nổi bật sự duyên dáng hài hoà, thơ mộng, đặc biệt và độc đáo (thời Pháp thuộc gọi hồ nầy là Grand Lac). Hồ rộng khoảng 25hecta. Thuở xưa hồ Xuân Hương chỉ là một đầm trũng mọc đầy cây năn, lát? nước mưa từ các triền đồi, nước chảy từ nhiều hướng tới hồ, sau đó nước chảy ngang qua cây cầu gỗ có tên gọi cầu Ông Ðạo, (do phiá ở gần đầu cầu là tư dinh của ông quản đạo Phan Khắc Hòe). Nước chảy qua cầu Bá Hộ Chúc rồi chảy về thác Cam Ly. Hình dáng mặt hồ phẳng và rộng rãi. Nhưng càng về cuối hồ (phía Bích Câu Kỳ Ngộ, vườn hoa) thì đuôi hồ trở nên eo hẹp, nhỏ dần? hầu như co thắt tới bên cây cầu Ðúc. Rải rác chung quanh bờ hồ có những gốc tùng rợp bóng rất đẹp.

Ven đường tráng nhựa dài 6km chạy vòng quanh hồ, tính từ đầu cầu Ông Ðạo (hướng đi lên khu phố Hoà Bình hoặc vô khu chợ Mới), đi tới phía nhà hàng Thanh Thủy, sân Cù, vườn hoa Ðà Lạt, vòng quanh hồ qua cầu Ðúc, tới thao trường Lam Sơn? rồi tới khu Thủy Tạ và quay trở về cầu ông Ðạo (hướng lên dốc nhà thờ con gà). * Hồ Xuân Hương càng thi vị quyến rũ nhờ sân Cù (sân Golf có tiêu chuẩn 18 lỗ), sân Cù thoai thoải nệm thảm cỏ xanh tươi và khá rộng, thấp thoáng đó đây những chòm thông ba lá, hai lá bóng mượt màu lục vẫn soi mình xuống mặt hồ xanh biếc. Gần cuối sân Cù là vườn Bích Câu Kỳ Ngộ trồng muôn hoa thơm ngát và xinh tươi, mỗi hoa mang một dáng vẻ đặc thù riêng, không hoa nào giống hoa nào. Bích Câu kỳ ngộ tương phùng nên-thơ, lý tưởng dập dìu nam thanh nữ tú hò hẹn trao đổi chuyện văn thơ và tình tự.

* Hồ Than Thở (thời Pháp gọi là Lac des Soupirs) từ khu Hòa Bình về qua cầu ông Ðạo, đi ngỏ thao trường ra phiá Thủy Tạ, xuống đường Quang Trung. Hồ Than Thở cách xa trung tâm thành phố khoảng 6km ở trong thung lũng khu ấp Chi Lăng + xã Thái Phiên và trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Hồ Than Thở tĩnh mịch trầm lắng suốt tháng năm, bởi đêm nầy qua ngày tháng năm khác? chỉ thoảng nghe ba bên bốn bề tiếng nhạc thông reo vi vu u-buồn không ngừng nghỉ. Hồ mơ màng với mặt nước im ả bóng loáng như tráng lớp men bạc. Nơi đây, thuở xa xưa đã có chuyện tình buồn có thật (không phải truyền thuyết). Tôi xin kể vắn tắt về một thiếu nữ phiền muộn tình duyên trắc trở, đã trầm mình xuống hồ Than Thở.
Từ ngoài ngả ba Chi Lăng đi vô hồ, bên hướng tay trái bấy giờ đường còn trải đá, (chưa tráng nhựa) ven bờ phủ đầy cỏ dại cao lút bụng, muốn tìm mộ nàng khó khăn, ta phải vạch nhiểu đám cỏ tranh cao gần tới ngực, vạch cỏ may, hoa mắc cỡ chằng chịt ra để tìm lối đi. Khi đi vô bìa rừng khá xa, tôi thấy một ngôi mộ xây bình thường, coi khiêm nhường đơn điệu phủ đầy rêu phong phai úa nước vôi khá nhiều. Trên đầu tấm bia mộ hoen màu có hình trái tim tô xi măng cũ kỹ, đã khắc ghi hai câu thơ gởi người thiên cổ:
Dù cho non sông thay đổi mãi
Ngàn năm Thảo vẫn sống trong Tâm?

* Suối: Từ núi Lang Biang (hoặc tên Việt Nam là Lâm Viên, còn gọi là núi Ông, núi Bà) ở tại Xã Lát, Huyện Lạc Dương, cách xa thành phố Ðà Lạt 12km, có thác nước trắng xoá chảy xuống hồ Ankroet & Ðankia, tạo thành Suối Vàng, Suối Bạc trải dài dọc ven chân núi Lâm Viên rất đẹp. Rừng thông ngút ngàn tươi xanh rợp bóng hữu tình nghiêng mình trên mặt hồ rộng mênh mông, lấp lánh ánh bạc sáng ngần như phiên gương sáng loáng, hồ phẳng lặng mơ màng, nước trong vắt luôn lấp lánh long lanh giống như mặt hồ được tráng thủy ngân.

Huyện Lạc Dương có dân tộc thiểu số gốc Lát, Chil, Cơ Ho sinh sống đông đúc. Nơi đây hoàn toàn tĩnh mịch, không tấp nập đông vui như hồ Xuân Hương. Hai dòng suối tọa lạc tại Lạc Dương uốn éo quanh co nào là thác, hồ, rồi biến thành suối, thành sông Ðạ Ðờn, nghe rắc rối phức tạp không ít. Tại đây có nhà máy Thủy Ðiện Ankroet & nhà máy lọc nước ở hướng Bắc.

* Chùa: Chùa Linh Quang xây năm 1931 an tọa tại 133 Hai Bà Trưng (Ðà Lạt) là ngôi chùa cổ kính lâu đời đầu tiên tạo lập trên đất ?Hoàng triều cương thổ?. Chùa chạm trổ những hình chim phượng trên mái rất tinh xảo, công phu, tuyệt tác; do hòa thượng Thích Nhân Thứ trụ trì.
Chùa Linh Sơn xây năm 1938 ? 1940 khánh thành, chùa an ngự ở một ngã ba cách trung tâm chợ Mới Ðà Lạt khoảng 700 ? 800m ? Chùa nằm trên ngọn đồi đa phần là trồng thông ba lá, dương liễu, bạch đàn. Chùa có tượng Phật Thích Ca đúc 1952 bằng đồng nặng 1.250kgs. Chùa nhìn chéo xuống phố Phan Ðình Phùng. Ðứng trên góc sân chùa, ta có thể nhìn thấy khu ?thành phố buồn nghĩa trang Số 4? chi chít bia mộ!

Chùa Phong Linh xây 1944, (chỉ có nữ tu, nên dân địa phương thường gọi là chùa Sư Nữ). Chùa an tọa trên ngọn đồi thông cao thơ mộng ở đường Hoàng Hoa Thám, Trại Hầm, nơi nổi tiếng có trái mận vàng óng giòn, ngọt, ngon. Chùa xa khu chợ Ðà Lạt khoảng 4km. Chùa Phong Linh xây mái kép cong: long, lân, quy, phụng. Chùa thờ Ðức Phật A Di Ðà, Quan Thế Âm Bồ Tát. Bồ Tát Ðại Thế Chi. Ðứng trên sân chùa Sư Nữ nhìn tổng thể xuống làng mạc dưới chân đồi ẩn hiện mờ ảo, thì không có bức tranh nào linh động, đẹp bằng cảnh sắc nước hương trời xanh xanh chập chùng, nhà mái ngói, mái tôn vật vờ bay lên làn khói ẻo lả uốn éo từ dưới thung lũng thấp chập chùng? Lồng trong tiếng thông bốn mùa nhã nhạc reo vi vu, êm ê hòa điệu nhịp nhàng là tiếng chuông mõ gõ nhịp đều đều, xen lẫn tiếng tụng kinh niệm Phật khi trầm bổng lúc lanh lãnh thanh thanh trong gió sớm khuya chiều vang vọng xa xa! Cư dân thấp thoáng đi lại trong sương, gió chiều nhè nhẹ phe phẩy mơn man vồng hoa đồi mận chập chùng.

* Chùa Tàủ (Thiện Vương Cổ Sát, còn gọi chùa Phật Trầm) do hoà thượng Trung Hoa tên Thọ Dã đứng ra xây 1958. Chùa gồm có ba tòa nhà cao đẹp tô màu vàng, mỗi toà nhà có thờ tượng: Tây Phương Tam Thánh. Phật Thích Ca. Quan Âm Bồ Tát. Ðại Thế Chi Bồ Tát. Tất cả tượng bằng đồng cao 4m, nặng 1,5 tấn. Riêng tượng Tứ Thiên Vương cao 2,6m đúc xi măng. Chùa Tàu phong cảnh hữu tình ngày đêm chìm khuất trong đồi thông rất đẹp, ở chùa Tàu có mâm quay lực cơ học tiếp tuyến đường tròn quay.

* Nhà Thờ: An tọa trên đường Ngô Quyền phía Tây Nam cách trung tâm phố Ðà Lạt 1/km là nhà thờ Domaine de Marie, (Couvent Saint Vincent de Paul) xây năm 1930, rộng 11m dài 33m, trên tổng diện tích đất 12 hecta. Tiền đình nhà thờ có hai đường vòng cung bước lên từng bậc tam cấp cao tụ họp ở hành lang cửa chính hình vòm tròn. Mặt tiền nhà thờ kiến trúc thành hình tam giác cân, trên đỉnh tam giác là cây thánh giá. Trên tả hữu mỗi nóc mái nhà xuôi thẳng đứng lát ngói hồng đậm, mỗi mái ngói ở tả hữu có ba cửa sổ tam giác cân nhỏ ráp kính nhiều màu. Ngoài và trong nhà thờ đều trang trí hài hoà độc đáo, trong nhà thờ là tượng Ðức Mẹ đứng trên quả cầu nặng 1 tấn, cao 3 mét. Nhà thờ và nhà dòng nữ tu, trường học đều tô màu hồng đậm.

Domaine de Marie tức là nữ Tu Viện nữ Bác Ái Vinh Sơn (nhà thờ & dòng tu nữ còn có tên gọi là Tu viện Mai Anh, vì tu viện nằm trên một ngọn đồi cao, nơi đây tuyệt đẹp với đồi hoa anh đào (dân địa phương nôm na gọi là bông Mai, nghe khiêm nhường, (thay vì hoa Anh Ðào nghe qúy phái sang trọng). Trên, dưới, chung quanh đồi: trồng toàn hoa Mai. Dưới những chòm cây Mai xanh chen lá nâu rung rinh, nắng lung linh đùa giỡn nơi kẽ lá cánh mai hồng hồng lả lướt phất phơ lung lay trong gió. Có trường Tiểu học & nam nữ sinh ngoại và nội trú (kể cả con mồ côi) nhiều ma soeur mặc áo dòng màu xanh dương, đội mũ lúp cánh én trắng rộng vành như cánh chim bay nhịp nhàng nhấp nhô theo mỗi bước chân. Họ chuyên nuôi trẻ mồ côi.

Hằng năm dòng nầy tổ chức hội chợ từ thiện, lấy tiền làm quỹ giúp người nghèo khó, soeur đi tới bệnh viện làm việc, giúp người đau yếu, bệnh nạn. Trên ngọn đồi nên thơ họ đi ra đi vô cầu nguyện kinh, xem lễ, làm việc bác ái: Thuỷ thổ, nhân hoà an cư phong cảnh càng trở nên êm đềm thơ mộng. Ðứng bên phía Lữ quán Thanh Niên (ở đường Hàm Nghi) ngó qua nhà thờ Domaine quả thật khu đồi mai anh đào tuyệt đẹp.

* Nhà thờ chính tòa Ðà Lạt (cư dân địa phương gọi nhà thờ "con gà") bắt đầu xây từ 19.7.1931 - khánh thành ngày 25.02.1942 do linh mục Céleste Nicolas thiết kế. Trên chóp đỉnh một tháp to cao nhứt (tháp chính) đã gắn hình cây thánh giá, có con gà bằng đồng cao 0,58m, dài 0,66. Con gà đứng trên một trục bạc đạn có thể xoay mình quanh bốn hướng theo chiều gió thổi. Ngôi nhà thờ chính, cung thánh, gian giữa và hai gian cánh phụ, hậu tẩm, giáp vòng, tuốt trên gần nóc trần nhà có 70 cửa kính màu. Tổng cộng chiều rộng nhà thờ: 14m, cao 47m, dài 65m.
Gác chuông nhà thờ (ở phía góc trái của cửa chính tòa) là những nấc thang hình xoắn ốc trôn đi lên lầu cao. Tháp chuông chính cao 16m, hai bên có hai tháp chuông phụ hài hòa xinh xắn. Trong tháp chính có bốn quả chuông to, mỗi sáng trưa chiều đúng giờ ấn định, thì từng hồi chuông lắc lư, rung ngân? vang lên bốn âm tần thánh thót trầm bổng lảnh lót khác nhau.

* Trường học: Nổi tiếng ?bề thế & sang trọng? và lâu đời tại Ðà Lạt: Trường Grand Lycée Yersin (1927) thiết kế trên một đồi bằng phẳng, trường hình vòng cung xây thành ba tầng lầu, quét vôi hồng, gồm hai mươi bốn lớp học. Trường có tháp chuông cao 54m, từ tháp chuông tính tới đuôi trường là 167m.
* Couvent des Oisaux (còn gọi Ðức Bà Lâm Viên; Notre Dame du Langbian. hoặc gọi: ?Ðức Bà Nữ Kinh Sĩ Thánh Âu-Tinh?), trường xây dựng 1935, an tọa tại số 2 Huyền Trân Công Chúa, Phường 4. Bên phải khuôn viên khu rào gạch là đất nhà thờ, dòng & trường, đất rộng mênh mông gần nơi dẫn vô thác Cam Ly.
Ðây là trường nữ trung học đầu tiên dạy chương trình Pháp, nữ sinh trường Couvent mặc đồng phục sơ mi cổ bẻ trắng, tay phồng bên trong, ở ngoài khoác thêm áo lạnh dày đan tay màu xanh biển (xanh dương đậm), áo mangto, áo ấm dạ, áo len loại dày màu xanh dương, màu đen, hoặc trắng. Mặc ríp đầm (skirt) có nhiều xếp ly màu xanh biển, váy lót under skirt, petticoat). Chân mang sandal có bít tất trắng cao lên tới đầu gối, hoặc giày trắng hay đen, bata, sport: màu trắng (hoặc đen). Ðầu đội mũ len có vành che nắng to rất khéo (như kiểu nón công chúa Bạch Tuyết, riêng về mũ có thể có những màu khác nhau).

* Le Petit Lycée (1937 là trường Tiểu học đầu tiên của Pháp ở Ðà Lạt, nằm trên cuối đường Yersin, & cuối đường Duy Tân. Trường hoạt động cho tới năm 1952 thì ngưng.

* + Trường D'Adran (còn gọi Lasan Adran) thành lập năm 1941. Từ ngoài đường Yersin qua ngã ba Bá Ða Lộc (và góc hotel Palace) là đường Bá Ða Lộc. Trường D'Adran nằm ở thung lũng sâu cuối đường Bá Ða Lộ, & gần ở dưới chân đồi của khu rừng Ái Ân hoang vu. Trường do các sư huynh dòng La San điều hành.

* Trường dòng Franciscaines Missionnaires de Marie (mở khoảng năm 1940), ở đường Hùng Vương, trường nằm kề quốc lộ lối đi về hướng Cầu Ðất phía đi Ðơn Dương. Các nữ sinh mặc váy màu da bò (nâu đậm) các em ở bên trường Franciscaine khi học hết bậc Tiểu-học, lên Trung-học thì được gởi qua bên Couvent des Oiseaux, vì ở bên dòng Franciscaine chỉ có từ lớp Năm tới lớp Nhứt (bây giờ gọi là: lớp Một tới lớp Năm). Do vậy nhiều nữ sinh bên Franciscaine đã chuyển qua Couvent vẫn phải mặc đồng phục áo trắng, áo len xanh, váy xếp ly màu da bò (màu nâu), giống như trường Dòng Missionnaires de Marie ở Trại Mát.

Ðã lỡ nói về trường Pháp, trường Tây, thì tôi không quên hướng dẫn họ đi các trường Việt chính và thành lập lâu nhứt:
* Trường nam trung học công lập Trần Hưng Ðạo (1956) ở khu Ấp Hà Ðông, nam sinh mặc sơ mi trắng quần xanh học trò (trước kia tên là trường Bảo Long). * Trường nữ trung học công lập Bùi thị Xuân (1957) (trước kia tên trường là Phương Mai). Nữ sinh Bùi Thị Xuân duyên dáng e ấp tha thướt trong tà áo màu xanh biển đậm đà, quần trắng, áo len xanh biển hoặc áo len đen, mang giày hoặc guốc, đầu đội nón lá chao nghiêng, tay ôm cặp. Sau những buổi học tan, thì tốp năm tốp mười học sinh tỏa về các nẻo đường trong thành phố, hoặc từng nhóm bạn dạo ra sân Cù ngắm cảnh, học bài cả nhóm, làm bài, làm thơ.
* Trường trung học Việt Anh trên đường Hải Thượng Lãn Ông, nữ sinh mặc đồng phục quần trắng áo dài màu tím hoa sim, cổ quàng khăn tím (rất ư thơ mộng), họ mang guốc, đội nón lá có tua nón màu tím. Nam sinh mặc quần đen, áo sơ mi trắng, áo len màu da bò. * Trường trung học Bồ Ðề nữ sinh mặc áo lam, hoặc áo trắng. Nam sinh áo sơ mi trắng, quần màu xanh. * Trường Trí Ðức nữ sinh mặc đồng phục trắng (và áo dài hồng lạt). Nam sinh mặc sơ mi trắng quần đen. Sau nầy có thêm trường trung học Hiếu Học... v.v...

Nhìn chung và thật thà mà nói, thì có trường ADran và trường Grand Lycée Yersin là mặc đồng phục rất sang đẹp & nổi: toàn sơ mi trắng, bên ngoài mặc veston đen hoặc xanh đậm, thắt cà vạt đỏ, hoặc cà vạt sọc nâu đẹp mắt, mang giày thời trang (họ là những nam nữ sinh con ông cháu cha, nhà giàu ưa đóng áo quần tân thời cao sang).

Các trường Ðại học và chuyên nghiệp: - Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt Việt Nam (1950). Viện Ðại học Ðà Lạt 1957 (Thụ Nhân). Dòng Chúa Cứu Thế (1962). Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc (1963). Ðại học Chiến Tranh Chính Trị (1966). Trường Chỉ Huy Tham Mưu (1967). Thiền viện Trúc Lâm và vô số trường Tiểu Học Công Lập & Tư Thục khác.

Chợ: Chợ Mới Ðà Lạt khởi xây 1958 khánh thành 1960, có ba tầng lầu rất rộng rãi, nguy nga đồ sộ, tại Việt Nam bấy giờ chưa có chợ nào sánh bằng. (chợ Cũ Ðà Lạt có từ lâu đời ấy là Khu Hoà Bình) ? Chợ Mới ở lầu 2 bán các mặt hàng: vải, áo quần, len, nón, giày dép, đồ dùng gia đình thuộc về tơ lụa, mỹ phẩm? Chợ có cầu thang đúc bê tông cốt sắt rộng nối liền chợ với khu phố Hoà Bình. Tầng trệt của mặt tiền bán đầy hoa tươi, dâu, mứt, bánh trái, v.v? Trong lòng chợ bán các loại thịt, hai bên hông bán hàng khô. Cuối lòng chợ bán cá, tôm, gà, vịt v.v? Phía sau tầng trệt đã làm thêm khu chợ mới loại ván gỗ, lợp tôn, đặt những hàng dù đủ màu quanh chợ bán rau tươi, và những quầy bán hàng ăn uống, chè, cháo, cà phê, giải khát.

* Cầu ông Ðạo là điểm nối tiếp đường lên trên phố Hòa Bình và đường bằng vô mặt tiền chợ Mới Ðà Lạt. Phía gần cầu ông Ðạo và nhà hàng Thanh Thủy, sân Cù? Nhà hàng Thủy Tạ sơn trắng có ba phần nổi trên mặt nước, một phần nhà hàng xây trên bờ, có cột thu lôi cao chất ngất, có lan can chìa ra giữa hồ. Tầng sân thượng của nhà hàng Thủy Tạ có những nấc thang, ta có thể lên cầu thang nhảy xuống hồ bơi lội thoả thích.

Ðứng trên tiền sảnh Hotel Palace du khách có thể thấy chủng viện Giáo Hoàng, dòng Don Bosco, Dinh I, trường Grand Lycée, v.v... Ba dinh thự rộng lớn sang trọng huy hoàng bậc nhứt thời bấy giờ dành cho gia đình vua an ngự:
* Dinh I: của ông tây triệu phú Robert Clément Bourgery mua miếng đất rộng 40 hecta và xây dinh thự năm 1940. Sau ông về Pháp đã bán lại cho vua Bảo Ðại.
* Dinh II: Trên đường Trần Hưng Ðạo về hướng Ðông Nam có ông Toàn quyền Ðông Dương Jean Decoux ở tại VN (người Pháp) đã xây một dinh thự có 25 phòng khang trang, phong cảnh thi vị. Ông dùng dinh nầy để cho gia đình và thân nhân nghỉ hè.
* Dinh III: trên đường Pasteur thẳng vô nghĩa trang Ba Le là Dinh III. Dinh Ba xây 1933, năm 1939 hoàn tất. Dinh có một trệt và một tầng lầu. Tầng trệt rộng rãi trang nhã tươm tất đầy đủ tiện nghi, dùng: tiếp tân, yến tiệc khoản đãi cần thiết, hội họp, phòng làm việc của vua, phòng đọc sách. Tầng hai là nơi sum họp ấm cúng riêng tư của gia đình vua, gồm: Phòng ngủ vua Bảo Ðại. Phòng hoàng hậu Nam Phương. Phòng hoàng tử Bảo Long. Phòng công chúa Phương Mai, Phương Liên. Phòng hoàng tử Bảo Thắng.

Dinh Ba khá đẹp nhờ hai khu vườn hoa rực rỡ, do tay người làm vườn có nghề trồng tỉa chuyên môn, có sáng kiến, ý thức chăm bón hòa hợp từng gốc hoa cành lá, trồng trọt tỉa tót công phu ở tiền đình và hậu đình. Dinh III thường là nơi gia đình vua Bảo Ðại nghỉ hè hơn hai dinh kia.

Thành phố Ðà Lạt có vườn tược quanh năm xanh màu tốt tươi, dồi dào hoa quả cây trái trĩu cành, nông sản, trà, cà phê, artichaut, mận, hột điều, nấm, dâu (nuôi tằm) các loại rau, trăm ngàn bông hoa khoe sắc trong các thổ gia. Nhiều ngôi biệt thự xinh lịch đa dạng có đường nét kiến trúc độc đáo. Nhà nhà ở dưới thấp lẫn trên cao chen chân nơi những con đường mòn đất đỏ uốn lượn trên ngọn đồi lồi lõm bên suối, bên hồ, nơi thác ghềnh xa xa. Ánh đèn mọi nhà thấp thoáng lung linh, mờ mờ trong sương, nhấp nhô cao thấp ẩn mình dưới bóng cây thông triền miên reo vi vu thiệt nên thơ, thi vị và vô vàn quyến rũ.
*****
Tình Hoài Hương

(*) Từ năm 1960 >> năm 1975 - bối cảnh ở thời điểm nầy, hầu như ít thay đổi. (Hoài Hương đã điều chỉnh bài viết trong quyển tập ?Soạn Bài Dạỷ & trích đăng trong truyện dài "Khi Ðịnh Mệnh Cúi Nhìn" cùng tác giả). Rất trang trọng và chân thành cảm ơn qúy vị nhạc sĩ & nhiếp ảnh gia đã post hình, nhạc? trên internet, tôi xin mạn phép chuyển tải nhạc & hình (nếu có copyright) vô bài viết, ngỏ hầu tăng thêm phần phong phú hóa hình ảnh sống động, từ tài nghệ độc đáo của qúy vị; qua quê hương Việt Nam cẩm tú phú cường của chúng ta.
Cẩn bút & Ða tạ!

Tình Hoài Hương

Mục Lục


3. Cuối Cùng Cho Một Mùa Xuân (tiếp theo và hết)

Phan Thái Yên




Sáng sớm hôm sau, ghe Duyên Ðoàn vào đến Cam Ranh cũng chỉ để kịp chứng kiến thêm một lần nữa cảnh di tản buồn bã của Căn Cứ Hải Quân ở đây. Như một nhân chứng bất đắc dĩ, phải chứng kiến hoài cảnh hấp hối của những căn cứ, thành phố mất vào tay địch đã làm tâm trí tôi kiệt quệ. Ðói mệt, chán nãn, tôi dẫn Thy tách khỏi đám đông đang nhốn nháo chạy về phía bến tàu lớn, đi tìm thức ăn. Chúng tôi may mắn tìm thấy một câu lạc bộ bỏ trống. Nước mát và mấy lon trái cây Quân Tiếp Vụ đã giúp hai đứa tỉnh táo. Trên đường xuống bến tàu, xách áo quần nặng hơn vì mấy chai nước ngọt, trái cây hộp tôi lấy ở câu lạc bộ. Thy cười chọc tôi.

- Xấu hổ, đồ đi chôm chỉa.

Chúng tôi đang chứng kiến và sống di tản. Chúng tôi đang trở thành người di tản có kinh nghiệm. Ý nghĩ đến như một nỗi buồn bạc nhược.

Ðám đông đứng đầy ở cầu tàu, chen chúc trên hạm kiều để lên chiếc Dương Vận Hạm cập dọc theo bến. Ðang lo lắng vì người đứng chờ trên cầu tàu quá đông, tôi nghe có tiếng gọi mừng rỡ từ trên tàu. Tài và Lập, hai người thuyền trưởng thời gian ở Ðồng Tháp Mười với tôi, rối rít thả dây xuống kéo hành lý lên. Diệp, lúc đó là Hạm Phó, đứng ở đầu hạm kiều thấy tôi cũng mừng rỡ bảo lính gác để chúng tôi lên tàu trước.

Thỉnh thoảng bắt chuyện với Sĩ Quan trên tàu, tin tức chiến sự di tản của Bộ Binh đã không còn làm tôi ngạc nhiên nhưng đau như từng vết chém xé lòng. Ðứng nhìn vệt bãi bờ xa dọc theo vùng biển Phan Thiết Phan Rang, tôi liên tưởng đến cảnh hoang tàn của những khu phố chợ sầm uất dọc theo Quốc Lộ Một. Ðoàn người di tản vẫn hốt hoảng bỏ nhà cửa thành phố ra đi, ngu ngơ vô vọng. Bóng tối sụp đổ của một cơ đồ quá lớn để người chạy loạn có thể chạy thoát ra khỏi vùng âm u của nó. Cho dù chỉ trong một chốc lát để bắt lại hơi thở mình và kịp khóc chia ly.

Chiếc LST cập bến Vũng Tàu ngày Long Khánh trở thành vùng địa đầu giới tuyến của miền Nam. Lính Sư Ðoàn 18 trở thành người đứng đầu cơn gió chướng. Ổ bánh mì không, ăn ở bến xe Bà Rịa, thơm ngon như yến tiệc. Gia đình tôi đã vào Sài Gòn bình an. Nhà càng thêm đông đúc với gia đình ông chú từ Ðà Lạt xuống. Trong cảnh đoàn tụ của gia đình chồng, Thy thường khóc lặng lẽ nhớ nhà giờ đây như đã muôn trùng. Thy và hai cô em chồng đến ghi danh tị nạn ở Bộ Văn Hóa Giáo Dục. Ba chị em Giáo Chức Di Tản đứng rưng rưng nước mắt chờ lãnh mỗi người ba chục ký gạo.

Tôi có lệnh phải trình diện đơn vị ở Căn Cứ Cát Lỡ, Vũng Tàu. Giang đoàn không có giang đỉnh và cuộc sống ở đậu thiếu thốn đã khiến quan

lẫn lính ai cũng chán nãn. Chúng tôi thay phiên nhau về Sài Gòn rất thường xuyên.

Trời cuối tháng Tư ở Sài Gòn mà buổi sáng có những cơn mưa nhẹ rất lạ. Người Sài Gòn quen với những trận mưa như đổ vào buổi chiều. Những cơn mưa lớn thật ngắn đến rồi đi. Tin đồn vào những ngày này là một biên giới mới đâu đó ở Vùng Bốn. Sông Tiền Giang, sông Hậu Giang? Mỹ Tho? Cần Thơ? Tin đồn như hơi thở tàn của một thân xác đang hấp hối. Một vài khuôn mặt cũ đang thành lập chính phủ mới để điều đình với Cọng Sãn.

Tuần lễ cuối tháng Tư. Một buổi chiều tôi theo xe đò về Vũng Tàu. Vừa vào đến đơn vị thì hay tin đường Bà Rịa, Long Thành đã bị cắt. Tôi nghĩ đến hoàn cảnh của mình đúng một tháng trước đây ở Hội An Ðà Nẵng, lòng lo lắng đến cùng cực. Những rầm rập hổn độn lúc căn cứ chuẩn bị di tản nghe và nhìn rất quen thuộc nhưng ai cũng buồn bã đăm chiêu hơn nhiều. Cuộc hải trình cuối cùng chỉ còn một ngã để đi. Ra biển. Ra đi và không biết sẽ đến đâu.

Ðêm trước ngày cuối cùng của tháng Tư. Tôi ở trên chiếc PCF của Võ quốc Dân. Trên tàu còn có vài Sĩ Quan khác ở Hải Ðội I Duyên Phòng. Tiếng Châu từ chiếc Coast Guard gọi lúc càng khẩn thiết. Châu chạy chậm lại để chờ chúng tôi qua tàu cùng đi. Chiếc PCF quá mõng manh cho chuyến hải hành này. Dân và tôi đã quyết định đem tàu về Sài Gòn chở gia đình nên sau khi cập tàu để nguời đi nhảy qua, Dân lái chiếc khinh tốc đỉnh quay vào. Sóng cửa biển vật vã gào thét cơn khóc ngất chia lìa. Bóng Châu trong phòng lái lờ mờ bàn tay vẫy chào. Chiến tranh dài dăng dẵng hơn hai mươi năm nhưng cuộc chia tay của những người lính thất trận giữa canh khuya thì quá vội vã và âm thầm. Ngọn hải đăng Vũng Tàu chớp tắt những vệt sáng cuối cùng soi đường cho đoàn tàu lầm lũi đi xa. Trong bầu trời khuya từng đoàn trực thăng của Hải Quân Mỹ hấp tấp bay đưa người ra biển. Ðèn hiệu trên trực thăng nhấp nháy những vệt dài nhảy nhót rối lòng.

Có lẽ chiếc PCF của Dân là chiếc tàu Hải Quân độc nhất chạy ngược về Sài Gòn buổi sáng cuối cùng tháng Tư. Ðoàn tàu từ Sài Gòn ra lẫn lộn tàu Việt Nam Thương Tín, Hải Vận Hạm, Dương Vận Hạm đông nghẹt người di tản chen chúc trên bong. Dân làm lơ không để ý đến những bàn tay vẫy ra dấu quay trở lại, tăng tốc độ phóng nhanh về phía Nhà Bè. Vài người lính của Dân, tuy quyết định ở lại, đã đồng ý giúp sĩ quan chỉ huy của họ lần cuối. Khi tàu về đến Khánh Hội họ sẽ bảo vệ tàu, chờ chúng tôi đem người nhà xuống rồi thầy trò sẽ chia tay. Sông Sài Gòn hôm đó sao quá dài. Tàu chạy mãi mới thấy bóng Căn Cứ Hải Quân Nhà Bè. Lời tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh của ông Tướng mới lên làm Tổng Thống càng làm Dân phóng tàu nhanh thêm. Khi về gần đến bến Khánh Hội, chưa kịp mừng , chúng tôi chợt nghe tiếng súng liên thanh từ bờ sông bắn xối xã về phía tàu. Một người lính bị thương nhẹ ở cánh tay.

Qua ống dòm tôi thấy từng ụ súng phòng không chỉa nòng lên trời. Lính chính quy CSBV trong vị thế tác chiến dàn dọc theo bờ sông. Vài chiếc T54, nòng súng kềnh càng, nằm ẩn mình dưới bóng cây. Lính ngồi trên pháo tháp dùng ống dòm theo dõi từng động tác của chúng tôi. Tiến thối lưỡng nan. Tôi nhìn Dân lắc đầu. Lần đầu tiên tôi nghe Dân chưởi thề. Tiếng chưởi bằng giọng Quãng của hắn nghe cũng hiền. Tôi leo lên nóc tàu treo miếng vải trắng lên cột ăng ten.

Dân cập tàu vào bờ. Lính đưa tay chào sĩ quan chỉ huy của họ một lần cuối rồi chia tay nhau vội vã. Dân bắt tay tôi.

- Gia đình tao di tản vào ở tạm nhà bà con ở gần khu Chợ Vườn Chuối, tao về đó rồi tính sau.

Nhìn con tàu nhìn giòng sông chảy ngậm ngùi, lòng tôi già nua một nỗi chán chường. Tôi thua trận. Tôi đầu hàng. Tôi chỉ là tên lính thất trận trong cuộc chiến tranh này.

Buổi sáng cuối mùa xuân năm bảy lăm, âm u cơn mưa nhẹ như sương, là dấu vết thời gian buồn bã của sự chung cuộc. Một chấm dứt não lòng. Nhiều đêm trong trại cải tạo, nằm bất động mệt mõi, mắt mở trừng cơn mất ngủ vì những xê dịch trong tâm tưởng tôi vẫn thường nghĩ về buổi-sáng-cuối-cùng đó. Ngoại trừ hình ảnh có màu sắc của đại đội Cảnh Sát Dã Chiến quân phục tác chiến, súng trong tay, đội hình chỉnh tề, dõng dạc bước trên Cầu Chử Y, tất cả chỉ còn là màu đen trắng. Chậm chạp và câm nín. Xác chết ngang chợ Hòa Hưng, trên đường về nhà. Ðoàn quân rừng rú đi vào thành phố từ phía Ngã Tư Bảy Hiền. Người Sài Gòn đứng hai bên đường đón chào quân đội nhân dân. Những cánh tay vẫy chào, nghi nan. Ðứa con gái quê đi ở, băng trật tự trên áo, tay cầm súng, bận bịu không mục đích trong con hẻm đi vào nhà. Tên hốt rác dạo lên làm chủ tịch phường. Trụ sở cách mạng phường bên cạnh nghĩa địa. Chưa quen với cái ghế gỗ, hắn ngồi loay hoay trước tấm cờ sao may vụng, ký giấy thông hành. Ðoàn xe motolova bít bùng chở người đi cải tạo chạy ra khỏi thành phố lúc nửa đêm về sáng. Xe chạy ngang nhà. Qua vết rách nhỏ của tấm vải bạt, con hẻm khuya sâu hun hút. Tất cả như một khúc phim cũ vô ích. Thôi hảy quăng bõ những tháng ngày nhục nhằn đó như quên đi một điều không cần thiết trong đời.

Trận mưa lớn như trút nước làm khung cảnh quanh chổ tôi ngồi thay đổi thật nhanh. Trời đang giữa mùa hè. Nguời Sài Gòn thì quá quen thuộc với những chuyến mưa chiều đến rồi đi.

Ngưòi thợ sửa xe đạp bên kia đường ngồi co ro dưới tấm nhựa căng vội, hút thuốc chờ mưa tạnh. Ðám buôn thúng bán bưng ngồi lan tận bậc thềm bên trong quán cà phê, bàn cải chuyện đổi tiền. Dọc lề đường, những người đạp xích lô ngồi ngủ gà ngủ vịt bên trong tấm bạt phủ kín xe.

Chờ trời ngớt mưa, tôi bỏ quán đi nép theo vỉa hè về bến xe lam Ngã Bảy. Ðường từ chợ Hòa Hưng về nhà vắng vẽ hàng quán. Cửa hàng nhà nước trống trải mấy chai thuốc gội đầu, xà phòng quốc doanh. Ðầu hẻm vào nhà là một quán xép bán cà phê, bàn ghế thấp nhỏ dọn sát ra lề đường.

Hai đứa em hốc hác vì chuyện học hành, sinh kế. Ba anh em ngồi ăn cơm dưới ánh sáng lù mù của ngọn đèn dầu. Ngọc vặn cao tim đèn.

- Anh Hai về mà nhằm đêm cúp điện, tối tăm quá. Mỗi tuần ba đêm.

Tôi cười.

- Cũng đở hơn Phước Long nhiều. Trên đó điện cúp mỗi tuần bảy đêm.

Ẩn, đứa em trai lớn, mời tôi.

- Cơm xong, tụi em đạp xe chở anh xuống Sài Gòn chơi.

- Thôi ra đầu hẻm uống cà phê được rồi. Biết hai đứa đi học chưa về, anh ngồi suốt buổi chiều ở quán Mai Hương cũ. Trời mưa lớn quá.

Hai đứa em dẫn tôi tới trạm công an khu vực trình giấy tờ. Tên công an người miền Bắc loắt choắt, lên giọng hạch hỏi về nơi đến trong giấy ra trại. Hắn ngoằn ngoèo mấy nét chử ký rồi đóng con dấu đỏ loét lên đó.

Mùi cà phê và điếu thuốc Thái Lan - anh Hai về, chơi sang một bữa - cùng với cãm giác ấm áp gia đình len lõi vào hồn nỗi vui hiếm hoi. Ngồi nghe hai em kể chuyện nhà. Giọng đứa em nhỏ già trước tuổi.

- Muốn sống còn trong xã hội này, theo em nghĩ, vấn đề chính là phải sẵn sàng với chuyện bất ngờ.

Buổi tối trong khu lao động văng vẵng tiếng trẻ nô đùa từ nhà hàng xóm. Tiếng chuông từ hẻm chùa Ðịnh Thành ngân nga dỗ dành. Ðã xa rồi tiếng kẻng báo giờ ngủ chát chúa phiền phức. Tôi nghĩ tới Thy và bé Ðông Xưa. Tôi ngủ ngon lành với giấc mơ đoàn viên đang tới.

Tiếng hàng quán ồn ào trước nhà đánh thức tôi dậy. Nằm yên lắng nghe từng tiếng cười, tiếng cải nhau, tiếng rao mời như lắng nghe nỗi hạnh phúc hồi sinh. Sự sống như nước mạch tươm chảy quanh mình và tôi hứng lấy thỏa thuê.

Hai đứa em đã thức dậy đến trường từ sớm. Trong nhà đồ đạc đơn giản tươm tất, thế mà tôi vẫn tìm chuyện dọn dẹp luôn tay suốt buổi sáng. Cảm giác đang-ở-nhà đã khiến tôi vui, ngồi đứng không yên. Trong hộc bàn, tấm hình bé Ðông Xưa lẫn với xấp thư nhà. Có lẽ hình được chụp vài tháng sau ngày Thy bồng con lên thăm tôi lần đầu tiên ở Long Khánh. Mái tóc Thy, ngang vai ngày mới cưới, dài xuống quá lưng trể tràng như nỗi đợi chờ. Bầy gà nở vừa kịp ngày con gái lên thăm. Bé Ðông Xưa mãi vui với mấy chú gà con để cho ông Bố lạ mặt bồng suốt thời gian một giờ thăm nuôi.

Ðang đọc bức thư cũ Thy viết từ Ðà Nẵng thăm hai chú em chồng, tôi bỗng hoa mắt không tin sự thật trên trang thư. Ðọc đi đọc lại đoạn thư Thy kể ngày

giổ đầu và đi thăm mộ bé Xưa mà nghe như mặt đất đang sụp đổ dưới chân mình. Có thể nào như thế được!? Lần lên thăm tôi ở Phước Long, Thy nói vì đường quá xa không thể bồng con theo được. Suốt thời gian thăm nuôi, Thy vẫn vui vẽ kể chuyện bé Xưa. Trong nước mắt, tôi đọc hết xấp thư để phải chấp nhận cái chết của con là điều có thực. Rất thực như lòng thương con, thương chồng mãnh liệt của Mẹ. Ðông Xưa bệnh nặng. Thy bồng con vào bệnh viện. Vì lý lịch cải tạo của Bố, Mẹ đành phải bồng con về. Giấu không cho chồng trong tù biết vì sợ chồng làm chuyện thiếu suy nghĩ, Mẹ đã hy sinh ôm lấy chuyện đau khổ một mình. Thương con cho Mẹ và nhớ con giùm cho Bố. Mẹ mảnh mai đã cưu mang gấp đôi nỗi đau mất con để Bố trong những đêm tù còn được những cơn mơ. Nhớ về mùa xuân xưa đầu cuộc trăm năm và mơ tới vùng đất hồi sinh dậy tiếng cười trẽ thơ. Bố biết bé Ðông Xưa đã không hề rời xa Mẹ. Bố biết bé Ðông Xưa sẽ còn mãi trong Bố như hình ảnh của mùa xuân cuối cùng.

Mùa xuân cuối cùng. Một quê hương trong tâm tưởng có tiếng võng ru ngậm ngùi...

Con sao sáo nhỏ,

Thường đậu cành mơ.

Hót lại bài thơ

Những ngày Ðông Xưa.

Sáng xuân nằm chờ,

Con sao sáo nhỏ

Về hót bài thơ

Mông mênh bến bờ.

Tìm ra tựa gốc cây mơ

Mới hay nỗi chết bơ phờ bủa vâỵ

Ôi! Con sao sáo nằm đây,

Mãnh hình hài nhỏ, gió mưa đong đầỵ

Cơn đau thương - như heo may

Về đan kín nắng đầu ngày mùa xuân

Bỏ cỏi trầm luân,

Sáo có bâng khuâng?

Sáng ngày mở mắt gian truân.

Chẳng còn nghe sáo vớt xuân cho đời.

Nỗi buồn kín hai bàn tay,

Không sao che kín mặt ngày đau thương.

(Hết)

Phan Thái Yên


Mục Lục


4. Những Chuyến Xe Lửa

Thanh Hà





Trong kho tàng văn học hay âm nhạc, đa số các kiệt tác để đời thường thiên về bi kịch, thảm sầu, mất mát ? có thế mới lay động trái tim mọi ngườị

Chẳng hạn như bài Những Bóng Người Trên Sân Ga của thi sĩ Nguyễn Bính mà tôi cho là một trong những bài thơ tả cảnh biệt ly xuất sắc nhất :

Những cuộc chia lìa khởi tự đây
Cây đàn sum hợp đứt từng dây
Những đời phiêu bạt thân đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt tối ngàỷ

-Những chiếc khăn màu thổn thức bay
Những bàn tay vẫy những bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn nầy

Hay Tiễn Biệt của thi sĩ tôi rất ái mộ thời 18, 20 tuổi, Nguyên Sa

Sao người đi sâu vào không gian trong
Bức tường vô hình nên bức tường dày mênh mông
Và sao lòng tôi không là vô tận
Cho gặp gỡ những đường tàu đi song song?.

Sao người không là một con đường
Sao tôi không là một ga nhỏ
Mà cũng có những giờ gặp gỡ
Cũng có những giờ chia tan

Rồi các bài hát như Tàu Ðêm Năm Cũ của nhạc sĩ Trúc Phương, chuyện cô gái tiễn người yêu là anh lính ra trận tiền . Giọng hát bùi ngùi, đoạn cuối còn kèm thêm tiếng còi tàu rúc lên ai oán khiến ta mường tượng ra được quang cảnh giữa đêm khuya hiu hắt , màn sương mờ ảo có đôi tình nhân khóc sầu chia ly não nuột:

Trời đêm dần tàn tôi đến sân ga đưa tiễn người trai lính về ngàn
Cầm chắc đôi tay ghi vào đời tâm tư ngày naỷ
?Tàu xa dần rồi, thôi tiếc thương chi khi biết người ra đi vì đời
Trở gót bâng khuâng, tôi hỏi lòng đêm nay buồn không
Chuyến xe đêm lạnh không, để người yêu vừa lòng ?

Quay ngược thời gian xa hơn, tức khi tôi hãy còn là cô bé con. Các chuyến xe lửa thu hút tôi có lẽ một phần bắt nguồn từ câu chuyện người đàn bà với chùm trái gùi tôi được nghe kể hồi năm lên 6,7 gì đó.

Chuyện kể về người mẹ trẻ có chồng bị bịnh nặng không đi làm được nên chị phải gánh vác thay chồng nuôi con . Mỗi sáng chị bắt chuyến xe lửa ra tỉnh buôn bán đến tối mịt mới trở về làng. Chiều chiều đứa con ra ga đón mẹ để được nhìn thấy mẹ từ trên bậc thềm toa xe bước xuống, tuy mệt mỏi nhưng đôi mắt ánh lên niềm hạnh phúc khi thấy đứa con bé bỏng đứng chờ dưới sân ga , luôn luôn chị mua chút quà về cho con khi thì viên kẹo, khi thì cái bánh cốm bánh in...

Một ngày định mệnh, lúc đó đang mùa trái gùi ( là trái gì nhỉ? Tôi cũng không biết rõ ), buổi sáng lúc mẹ rời nhà, con dặn :

- Chiều về mẹ nhớ mua cho con trái gùi mẹ nhé.

Mẹ gật đầu hứạ Buổi chiều sau khi hàng đã bán xong, chị mua một xâu trái gùi theo lời con dặn rồi vội vã bước lên toa xe đang bắt đầu lăn bánh. Vì sợ trễ nên chị hấp tấp leo lên chẳng may bước hụt chân ngã trên đường raỵ Bánh xe cán thân thể chị nát tan.

Khi xe tiếp tục về ngừng ở ga có con chị đứng chờ như thường lệ. Cậu con háo hức tìm mẹ. Các cô dì bạn hàng lần lượt bước xuống mà bóng mẹ không thấy đâụ Một người cầm xâu trái gùi trao cho cậu:

-Ðây là trái gùi mẹ con mua cho con nè.

Cậu bé ngơ ngác:

-Mẹ con đâu rồỉ Sao xâu gùi đây mà mẹ con đâu ?

Mọi người xúc động không cầm được nước mắt mà biết làm sao để kể cho cậu bé nghe việc mẹ cậu vì bận đi mua gùi mang về cho cậu rồi sợ trễ chuyến tàu mà hấp tấp nhảy lên toa bị trượt chân, chết đau đớn.

Cái chết thảm thương của người mẹ ấy cứ ám ảnh tôi mãi đến tận bây giờ.

Chuyện còn kể thêm rằng: Người chồng thỉnh thoảng mơ thấy vợ hiện về cầm xâu gùi đặt vào tay con, còn dặn dò chồng khi ngủ nhớ coi chừng đắp mền cho con kẻo lạnh.

Tưởng chỉ là một câu chuyện trong tiểu thuyết hay cổ nhạc, không ngờ khi tôi vào internet tìm hiểu về trái gùi thì khám phá ra đây là chuyện có thật xảy ra hơn nửa thế kỷ trước ở tuyến đường Saigon? Lộc Ninh-Lái Thiêu , tên người đàn bà được nhắc lại rõ ràng. Và được nghệ sĩ Minh Cảnh hát trong bài Trái Gùi Bến Cát.

Thảo nào mà từng lời hoà quyện với giọng truyền cảm não nuột của danh ca đã đánh mạnh vào tâm hồn của cô bé 6,7 tuổi là tôi sâu đậm đến vậy, khi tôi tự đặt mình vào hoàn cảnh của cậu bé ấỵ

Khi ta còn bé, mẹ là tất cả những gì vũ trụ tượng trưng. Là bà tiên có thể mang lại phép mầu, là vị thần che chở bảo vệ, là tình yêu thương hy sinh vô biên vô lượng. Mất mẹ dù ở tuổi nào cũng là một mất mát không gì bù đắp nổi huống chi chỉ là một chú bé con non nớt.

Do tôi đã bị ảnh hưởng bởi những gì mình nghe, đọc... nên hình ảnh các chuyến tàu luôn gợi trong tôi nhiều cảm xúc: bâng khuâng, man mác, lãng mạn xen lẫn sự bất an về cuộc từ ly của ai đó mà người ra đi không thể trở về như lời hẹn ước.

Âm thanh tiếng còi tàu quyến rũ, thúc giục máu phiêu lưu trong tôi mau chuẩn bị valise đi đến những chân trời xa lạ để thoả tính hiếu kỳ về nhân sinh và thiên nhiên.

Tôi muốn ca tụng ngành đường sắt, một phương tiện chuyên chở đã có từ hàng 190 năm trước mà có lẽ rất nhiều người chỉ có dịp nghe, thấy chứ chưa bao giờ xử dụng vì nhiều lý do riêng: Hoặc nó chỉ được yêu chuộng và thịnh hành ở các quốc gia châu Âu, châu Úc, Nhật.. đó là cách giảm bớt tình trạng kẹt xe, đỡ mệt mỏi vì phải tập trung tư tưởng để tự lái xe nhà, tiết kiệm thời gian và ý thức về sự ô nhiễm môi trường?.

Từ lâu ngành du lịch của một vài quốc gia đã có ý tưởng biến những toa xe lửa cổ xưa thành khách sạn di động xa xỉ sang trọng cho khách du lịch xuyên biên giới thăm các danh lam thắng cảnh các quốc gia láng giềng.

Càng đô-thị-hoá, càng kỹ-thuật-hoá thì hình như dân châu Âu càng có khuynh hướng quay về cuộc sống đầu thế kỷ 20: giản đơn, hoà mình cùng thiên nhiên để bảo tồn giá trị nhân bản, nhân văn, nhân đạọ


Chuyến metro để lại cho tôi một cảm giác luyến lưu, nồng ấm là chuyến tàu cuối năm dương lịch ở Paris ba năm về trước. Tôi cùng cô em họ đi từ trạm Trocadero ( nơi nhìn ngắm tháp Eiffel ) về Công Trường Cộng Hoà ( La Place de la Republique ), gần nhà cô ấỵ

Lên cùng trạm với chúng tôi là ba chàng tuổi trẻ, gương mặt thông minh, ăn mặc tuy đơn giản quần jean áo chemise nhưng tươm tất chuẩn mực gây sự tin tưởng mà thoạt nhìn ai cũng đoán ngay là sinh viên Nhạc Viện Âm Nhạc nào đó vì cả ba mang theo người một nhạc cụ khác nhau: đàn violon, guitar, sáọ Chờ tàu rời ga, cả ba bắt đầu vừa đệm đàn vừa thay nhau hát, lúc mỗi người một đoạn lúc hát bè. Tiếng đàn điêu luyện, giọng ca lúc vui tươi lúc u sầu lúc hùng tráng tuỳ theo bài nhạc. Phong cách vừa duyên dáng vừa lãng tử toát tràn nhựa sống của những người trai trẻ mà tương lai hãy còn ở phía trước, trái-banhđdời chưa bị đá tả tơi thu hút cảm tình của hành khách có mặt.


Hình ảnh ba chàng trai trẻ đôi mắt sáng ngời ôm đàn ca hát gợi nhớ một thời đã qua của mình khiến phím lòng tôi chùng xuống một cung âm. Không phải họ hát hay hơn ca sĩ chuyên nghiệp, mà chính tuổi thanh xuân của họ ví như làn gió mát ào ạt thổi qua trưa mùa hạ nóng khô, đã chinh phục được tôi là vì vậỵ


Tôi như bắt gặp chính mình ngày xưa, với nguyên vẹn cảm xúc của con gái dậy thì thoáng xao lòng trước một ánh mắt nhìn trộm của ai đó trong sân trường, hoặc cuống quýt lo sợ khi có người đón đợi trên đường đi học về, hoặc lá thư của ai nhờ ai trao vộị..Một chút xíu rộn ràng, chỉ vậy rồi thôi, chả bao giờ có đoạn kết.


Tôi thuở ấy sao mà ngoan lạ ! Khẽ vào đời bằng bước chân vừa rụt rè vừa lạc quan, mộng ước đầy ắp tâm hồn trắng như tờ giấy chưa thấm nhoà vết mực.Thế mà mấy chục năm rồi đó, tôi đã nếm đủ vị ngọt mật đắng cay chua chát do cuộc sống mang lại mà giờ đây bước vào tuổi trung niên tôi tự hào là mình vẫn còn giữ được sự giản đơn bình dị không suy suyển như thuở nàọ


Chuyến metro lúc ấy không có đông hành khách nên chừa ra một khoảng không gian khá rộng để cả ba chàng tha hồ trình diễn. Chúng tôi ngồi hàng ghế ngoài cùng nên rất gần với họ. Những bản tình ca Pháp, Anh..của những năm 1960,1970 dù đã nghe nhiều lần bởi các ca sĩ nổi tiếng, nhưng trước ?live show? bất ngờ của các cậu sinh viên vẫn có sức lôi cuốn bởi cái vẻ trong sáng, trí thức, tự tin không cường điệu, tôn trọng?nên rất dễ gây thiện cảm cho người đối diện.


Tôi đi metro ở Paris cũng nhiềụ Thường gặp khi đàn ông khi đàn bà lên hát hò dăm câu rồi đến từng hàng ghế để xin tiền, nhưng ít ai chịu mở hầu bao ra làm một cử chỉ nàọ Nhưng với ba chàng trai trẻ nầy thì khác, khi tôi lục ví của mình thì cũng có nhiều người hành động giống tôị

Trước lúc tàu ngừng ở trạm kế, ba sinh viên ngỏ lời cám ơn và chúc mừng " joyeux noel", "bonne année" mọi người, sau cùng họ đến gần tôi để tỏ sự cám ơn đặc biệt về món quà tôi tặng họ khá hào phóng.


Ở Paris nói riêng, châu Âu nói chung có rất nhiều nghệ sĩ đường phố. Họ có thể là một chú bé, cô bé tuổi 10 đến 15,17 chơi đàn violon ở góc đường nhiều người đi bộ.Họ có thể là một ban nhạc gồm 5,6 người trẻ nam nữ lẫn lộn đem các nhạc cụ bày ra ở một góc dưới tầng hầm metro, chơi nhạc rất điêu luyện. Âm thanh du dương thánh thoát thu hút rất nhiều hành khách dừng chân lắng nghẹ Hết một bản nhạc, khán giả vỗ tay tán thưởng, mở ví lấy tiền để vào cái nón đã đặt sẵn dưới nền rồi vội vã tản đi mọi hướng cho kịp bắt chuyến tàu tiếp theo, kịp vào công sở, kịp vào trường học

Thà làm người đánh xe ở thành Paris còn hơn làm ông vua xứ mọỉ.

( Cách Ngôn Pháp )

Phải, người ta thà sống đời người đánh xe ngựa ở xứ sở văn minh mà được hít thở không khí thanh bình, nhân bản hơn là sống đời đế vương mà im lìm không dám hé môi như những đàn cừu ở xứ man dạị

Lần đầu tiên tôi được nghe câu nói này là từ má của tôị Khi còn nhỏ, mỗi khi má ngồi may quần áo tôi thường quanh quẩn bên cạnh để nghe má kể chuyện hoặc truyền dạy cho chị em chúng tôi những kiến thức về nhân sinh quan về đạo đức làm ngườịRồi theo thời gian, tôi ?bắt gặp? câu nói nầy nhiều lần qua sách báo văn chương Pháp mà tôi thường đọc.

Có thể nói chính má tôi là người đã khai sáng và ươm mầm cho tôi khái niệm về hai chữ tự do để tư tưởng tôi mãi đến bây giờ luôn theo khuynh hướng đó.

Câu cách ngôn Pháp trên làm tôi liên tưởng đến câu nói đầy khí phách hào hùng, tự trọng của một vị tướng Việt Nam Trần Bình Trọng khi ông bị giặc bắt và dụ dỗ ông chiêu hàng để hưởng lợi:

"Thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc"

Chúng ta con cháu đời sau nguyện noi theo gương các đấng tiền nhân để không hổ thẹn là người Việt Nam.

Cũng cùng đi metro, ở Paris tôi giữ lại một kỷ niệm khá nhẹ nhàng lãng mạn nhưng ở Milan, Ý thì lại khác. Lần đó bốn dì cháu tôi bị hai cô -chắc người Nam Tư hay Thổ Nhỉ Kỳ - đặt ?lộn? tay họ vào xắc của tôi và ba lô của cô cháu để tìm gì đó. May cho chúng tôi và xui cho họ là chúng tôi đã phát giác kịp nên họ chưa có thời gian cầm nhầm ví tiền , điện thoạỉ

Tôi luôn yêu mến châu Âủ nhất là Thuỵ Sĩhơn bất cứ nơi nào trên thế giớị
Thuỵ Sĩ thật sự là Nhà, là Quê Hương lý tưởng thứ hai của tôi vậỵ

****

Thanh Hà

Mục Lục


5. Trò Chuyện Với Khoảng Không Trước Mặt


Tuyền Linh



TẬP I - Trò Ðời Và Công Lý

Phần 17

21.7.2021 - Bạn hiền ơi, người ta thường nói, ghét của nào thì trời trao của ấy. câu nói nầy lại chính là đích ngắm vào mình hôm nay. Bạn thấy có tội và bất công cho mình không? Như bạn biết đó, mình rất ghét chờ đợi, bất cứ hình thức chờ đợi nào, kể cả chờ đợi người yêu. Thế mà hôm nay mình phải chờ đợi, có thể là dài hạn, trong vụ việc khởi kiện của mình. Mình còn nhớ là mình quyết tâm khởi đầu vụ kiện ngày 14 tháng 2 năm 2020, như vậy tính đến nay là 01 năm, 05 tháng, 08 ngày. Thời gian dài kinh khủng mà chưa đến hồi kết thúc. Thôi, đến đâu hay đến đó, mình cũng đã mệt mỏi lắm rồi.

Như mình đã nói với bạn những ngày trước đây, từ khi dịch Covid 19 bùng phát trở lại ở Sài Gòn, mình không còn nghĩ nhiều về vụ kiện nữa, dù đó chính là của cải của mình qua bao năm làm việc vất vả dành dụm mới có được, không phải của trên trời rơi xuống. Từ trạng thái nầy, mình vơi đi tất cả mọi chuyện ở Tòa án, kể cả việc buồn ông luật sư của mình quá thiếu tâm lý với khách hàng. Thực tình thâm tâm mình không trách ổng, mình chỉ hơi buồn ổng thôi. Mỗi

người một tính, biết sao bây giờ!? Thú thật với bạn, từ khi dịch Covid 19 bùng phát lại cho đến bây giờ, đầu óc mình luôn nghĩ đến sự sống và cái chết. Mình thấy ranh giới giữa hai lãnh vực nầy quá là mong manh. Nhìn đường phố Sài Gòn trong những ngày giãn cách và hình ảnh những hộp cơm cứu đói, mình không sao cầm được nước mắt. Mình ước chi có tiền để làm được những việc đầy ý nghĩa nầy. Mình buồn lắm bạn ơi ! Bạn còn nhớ không, ngay trong đêm đầu tiên mình bị đau nhức, vật vã thân xác trong khách sạn tại huyện Ðơn Dương, mình đã từng tâm sự với bạn, mình ước mong thắng kiện không phải để có tiền ăn sung mặc sướng. mà để thực hiện được 2 dự án mà mình đã ấp ủ từ lâu, đó là: lập một quỹ từ thiện và thực hiện dự án âm nhạc của mình. Trong thời gian nầy, dịch Covid ? 19 bùng phát dữ dội quá, nhất là ở Sài Gòn. Mình buồn nhất là không có điều kiện để chung tay góp sức với Nhà Nước, với đồng bào để kịp thời cứu trợ bà con cơ nhỡ trong lúc nầy. Ðã hơn 80 tuổi rồi, lại không có một đồng dính túi thì làm được việc gì? Phải chi vụ Tòa án có kết quả sớm hơn và mình được công bằng trong việc đòi lại tài sản thì mình có đủ điều kiện chung tay góp sức xoa dịu nỗi đau cho bà con cơ nhỡ trong thời điểm dịch Covid ? 19 nầy. Buồn quá là buồn?! Thậm chí, nhìn cảnh đường phố Sài Gòn trong những ngày giãn cách quá vắng bóng người, lác đác bên vỉa hè chỉ còn những bà con cơ nhỡ nhận những hộp cơm cứu đói, mình rất đau lòng. Qua cảm xúc ấy, mình đã viết

lên nhạc phẩm SÀI GÒN CỦA TÔI, mà mãi đến hôm nay vẫn chưa biết lấy đâu ra tiền để thuê ca sĩ thể hiện thu âm. Có thể là bạn không tin, nhưng đây là sự thật. Thú thật với bạn, mình còn muốn viết nhiều, nhiều nữa những tác phẩm âm nhạc nói lên thảm cảnh trong mùa đại dịch nầy, nhưng rồi không hiểu sao lại thôi, không viết. Tất cả đành giữ lại trong lòng. Viết xong rồi để đó thì viết làm gì? Cảnh đời và cảnh tình của mình hiện tại là thế đó. Dẫu sao, mình cũng phải cố gắng trên mọi lãnh vực đời sống, bởi nếu không cố gắng là đồng nghĩa với thất bại. Mình không bao giờ chấp nhận kết quả đó. Dù đường đời có bao nhiêu chông gai cũng phải đi, đi mãỉ rồi cũng phải đến. Mình cho đây là quy luật sống và là nhật tụng của mình. Nói đến điều nầy, bạn đừng vội cho mình là người lý tính nhé! Mình khẳng định với bạn, mình không là người lý tính, nhưng có một điều nghịch lý trong quan điểm sống của mình, đó là mình rất tin vào quy luật, nhất là quy luật trời đất. Bởi thế, chuyện sinh, lão, bịnh, tử đối với mình rất bình thường. Mình luôn có tư tưởng đón nhận như là một lẽ thường tình. Mà đương nhiên và thường tình thật! Nó hoàn toàn như chuyện ăn, ỉa trong tuần hoàn cơ thể vậy. Phải như thế trong một chu kỳ. Ðã biết phải như thế trong một chu kỳ, vậy mà buồn cười thật, có những người gồng mình gắng sức đi ngược lại với thiên nhiên. Ðể làm gì và được gì? Ðược tai họa. Cho nên, có nhiều khi trời đã cho sức khỏe, công việc ổn định, thậm chí còn cho chức vụ chức quyền nữa, mà vẫn

muốn thêm, muốn có hơn như thế, hơn?hơn nữảvà cuối cùng vô tù. Tại sao vậy? Tại tham nhũng, tại mưu đồ xảo quyệt để tranh lợi danh. Tại không chịu chấp nhận những an yên trời phú. Nói khác hơn, họ không chịu an phận quay theo chu kỳ bình yên của một đời người. Họ đi ngược lại với lẽ trời. Họ luôn ham hố, họ không chịu nhìn cái cây sống chỉ cần đất và nước trời cho. Họ quên rằng ? thiên địa vạn vật luôn nhất thể ? ắc sẽ yên bình. Họ muốn vượt ra ngoài cái nguyên lý nầy nên họ lãnh đủ. Mình dám khẳng định với bạn, với lẽ trời, không ai thiếu, ai đói cả. Nếu có, chỉ là đột xuất nhất thời thôi, rồi đâu lại vào đó, an yên?Bạn cũng thấy đó, hình ảnh cứu trợ, cứu đói của các mạnh thường quân, đồng bào, Nhà Nước khi dịch bùng phát dữ dội tại Sài Gòn trong những ngày qua là một minh chứng? Cây ATM gạo mọc lên khắp nơi. Quán cơm cứu đói mở ra đầy đường. Thậm chí cây ATM khẩu trang cũng có mặt tại Sài Gòn. Cho nên đừng viện cớ nầy cớ khác mà làm những điều trái với lẽ trời để phải vào tù. Không ai làm khó mình cả, chỉ tại mình làm khó mình thôi. Hay nói một cách văn chương hơn, triết lý hơn, ác giả ác báo.

10.8.2021 - Mình dậy từ lúc 3h00 sáng, đêm nay khí trời hơi oi bức nên khó ngủ. Hơn nữa, đầu óc mình suy nghĩ lung tung đủ điều, nhất là vụ dịch Covid-19 và nhiều chuyện khác nữa gần đây. Mình đang ngồi trước màn hình internet và cảm thấy hạnh phúc, nhưng rồi lại bị hạn chế cảm xúc bởi những suy tư vu vơ. Mình nghĩ nhiều người

có học thức cao rộng, địa vị lẫy lừng nhưng sao họ không thấy được giá trị của hai chữ TỰ DO? Vậy Tự Do nhỏ hay lớn? Hay khi nào thì nhỏ, khi nào thì lớn? Mình thường khuyên con cái mình, đùng COI người khác để sống theo, và cũng đừng cố sống để người khác COI theo mình. Như thế thì MẤT nhiều hơn ÐƯỢC. Ðang ngồi trước màn hình internet bây giờ, mình cảm thấy mình tự do quá, hạnh phúc ghê, dù vừa mới xuống bếp lục mấy củ khoai để ăn lót dạ buổi sáng. Không giấu chi bạn, khoai rất ngon, bởi mình thấy ngon, bởi mình đang hạnh phúc và tự do đó mà! Chắc là bạn hiểủ? Cũng có thể bạn cho là ? thích nghi với hoàn cảnh ?. Vâng, cũng đúng thôi. Hoàn cảnh TỰ DO và hoàn cảnh không được TỰ DO luôn trái ngược nhau. Chung quy, cũng do chính mỗi con người tạo nên thôi. Không ai bắt ai phải làm thế!

11.8.2021 - Bạn ơi, hôm nay mình nhận được tiền thù lao viết nhạc cho khách hàng, mình vui lắm. Như vậy là mình có tiền gởi ca sĩ thu âm bài nhạc của mình rồi. Chắc tuần tới sẽ trình làng thôi. Hiện tại, mình đã viết hai bài, SAI GÒN CỦA TÔI và SÀI GÒN BÂY GIỜ, bài nào mình cũng ưng ý hết, bởi mỗi bài đều nói lên mỗi khía cạnh trong nạn đại dịch Covid-19 tại Sài Gòn. Tuy nhiên, chưa đủ tiền nên mình cho thu âm bài SÀI GÒN BÂY GIỜ trước. Thật ra thì mình cũng còn một ít tiền trước đây của nhạc sĩ V.V.B - thi nhạc sĩ Nhược Thu - và thi văn sĩ Chu Vương Miện cho để cứu đói, nhưng mình không dám lấy ra xài.

Ðó là tiền cứu đói, xài đâu được ngoài mục đích cứu đói? Như bạn biết đó, mình mang danh là một nhạc sĩ, thi sĩ, cũng có bộ mặt không đến nỗi tệ, thế mà ai biết mình đang đói trong thời điểm nạn dịch Covid-19 nầy. Có thể bạn hiểu, mình đã nói với bạn từ trước, vào tuổi của mình bây giờ, mình chỉ còn mỗi một việc ngoi ngóp được là viết nhạc thuê cho khách hàng. Tuy lượm bạc cắc nhưng sống qua ngày cũng tạm ổn. Có điều tiền dư thì không có nên muốn giải quyết một vấn đề gì cấp thời thì đành chịu. Rất may ơn trời, từ trước đến nay, mình không gặp việc gì cấp thời cả, ngoài vụ Covid-19 như hôm nay.

12.8.2021 - Hôm nay cũng xin nói rõ tận đáy lòng mình để bạn mừng lây, nhờ mấy triệu từ các anh bạn giúp đỡ nên mình yên tâm viết lách, không lo nghĩ nhiều về việc cứu đói. Tuy nhiên, niềm vui cũng không được trọn vẹn lắm khi thấy thằng con trai kết nghĩa đang lâm bịnh giữa lúc dầu sôi lửa bỏng như thế nầy. Cháu có bịnh viêm đại tràng từ trước, nhưng vì tính ý của cháu không được cẩn thận lắm, ăn uống vô tư nên bị tái đi tái lại hoài. Hôm nay, cháu lại bị bí đại tiện, tiểu tiện cũng bị hạn chế, bụng lại bị đau tức từng cơn. Như bạn biết đấy, giữa thời điểm nầy, nói đến chuyện đi bệnh viện là vô phương. Ngày nào mình cũng xem tin tức trên TV nên biết rõ điều nầy. Trong bịnh viện bây giờ, mọi y bác sĩ, kể cả điều dưỡng đều bù đầu tập trung vào nạn dịch Covid-19, họ không có điều kiện thời gian lo cho mình. Phải thông cảm thôi. Biết sao bây giờ?

( còn tiếp )


****

Tuyền Linh

Mục Lục


6. Khúc Phim Buồn


Nguyễn Ðịnh



(Viết dể nhớ Banmethuột, ngày 10 tháng 3, 1975)

Hằng năm cứ mỗi lần đến ngày 10 tháng 3, Hải không dấu được nỗi cảm xúc của mình, có những khi cảm xúc kéo dài đến hàng tuần, và những lần như vậy, anh cơ hồ đi lại những khu phố thân quen của Banmethuột một thời thơ mộng và đáng yêu.

Thoảng chốc mà đã mấy mươi năm, tóc anh đã điểm bạc, bạn bè trang lứa biết bao nhiêu kẻ đã ra đi, nhưng trong lòng anh, khi nhớ về quê hương cũ, vẫn nghe lòng sục sôi thời tuổi trẻ, trong huyết quản anh, giòng máu luân lưu cuồn cuộn như thủa trai tráng một thời, và bao mến yêu nơi quê hương ấu thơ đó hiện ra mồn một trong tâm trí anh.

- Này, ông đã nghe tin gì chưa vậy?

- Thì tụi nó đang di chuyển về Banmethuot cấp Sư đoàn và là tụi chính quy, có phải ông muốn nói về tin này không?

- Ừ phải rồi, bên Cảnh sát cũng đã được Chủ nhân của 7 chiếc xe cần câu tới khai báo là xe của họ đi làm rừng đã bị tụi nó (VC) tịch thu ở khu vực Ðức Lập vùng Tây Bắc , và khu Băng Ðon cũng bị 3 chiếc.

- Không Trợ đã chụp được không ảnh hoạt động của tụi nó, đã gởi công điện cho Quân Ðoàn và các đơn vị liên hệ rồi.

- Cũng mong là không có gì.

- Dĩ nhiên là không có gì, vì nơi đây là quê hương của tôi mà! Hải vừa nói vừa cười.

Ðó là khoảng thời gian cuối tháng 2 năm 1975, anh và Chi nói chuyện với nhau 3 tuần trước ngày 9 tháng 3 năm 1975, ngày Việt cộng tràn ngập Chi Khu Ðức Lập thuộc Tỉnh Quảng Ðức, và đêm hôm ấy, lúc 2 giờ 20 sáng ngày thứ 2, 10/3/1975, cộng quân pháo kích thị xã Banmethuot, mở đầu cho trận tấn công vào thị xã này.

Sáng ngày 10 tháng 3, lúc 6 giờ 30 sáng, tại Ngã Sáu, trước nhà thờ Chính Tòa Banmethuot, khi xe của Ty Thông Tin còn loan đi lời kêu gọi đồng bào ?ai ở yên nhà nấy, tình hình thị xã vẫn còn yên tĩnh?, thì bộ binh của cộng quân đã tràn chiếm góc Tây Bắc của Phi Trương L 19 và xâm nhập khu vườn cà phê cuối đường

Phan Chu Trinh, đồng thời các chốt điểm trọng yếu của Cảnh Sát ở mặt Nam Thị Xã đã phải xin lệnh rút để tránh bị tiêu diệt.

Tình hình Thị xã từ đường Võ Tánh, Phan Chu Trinh, chay. xuống Nguyễn Tri Phương keỏ dài cho đến Suối Ðốc Học và Khu Buôn A Lê A, A lê B vẫn còn trong sự kiểm soát, nhưng rải rác một vài nơi như khu vực Trần Hưng Ðạo, (Ty Ngân Khố đi vào) và khu Kim Mai đã có những gia đình bồng bế con, gồng gánh chạy vào trung tâm thị xã, đến nương náu trên đường Lý Thừơng Kiệt, khoảng giữa Ama Trang Long, và Quang Trung, chen chúc nhau trong tiệm Bi da Thanh Sơn.

7 giờ 30, sáng ngày Thứ Hai, 10 tháng 3, 1975, bộ binh của cộng quân đã từ khu vườn cà phê sau lưng Tòa Giám Mục, theo đường Phan Chu Trinh xậm nhập thị xã và chiếm khuôn viên Nhà thờ Chính Tòa, ở Ngã Sáu. . . . .

Rồi tất cả như một khúc phim lần lượt hiện ra trông trí Hải. Khu nhà anh ở bị trúng đạn bốc cháy, nhà hàng Hòang Vinh, khói lửa cuộn vòng dâng cao, thành phố náo loạn trong chốc lát, từng nhóm người tụ tập từng góc phố, từ đường Y Yut', Khu Trường Tàu, Chùa Khải Ðoan, cho tới Khu Hoàng Diệu - Lê Văn Duyệt, Phạm Phú Quốc - Hàm Nghi, . . .

Một số dân cư từ Buôn A lê A, khu Suối Ðốc Học . . . lại gồng gánh, bồng bế nhau đổ về Trung tâm thị xà và ẩn náu trong khu chợ, sau nhà hàng Vĩnh Thuận . . .

Cho đến lúc này, người dân thị xã vẫn chưa tin Banmethuột sẽ mất, vì Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh còn đó, Tiểu Khu còn đó, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát còn đó, và nhất là tin truyền miệng cho biết Biệt Ðộng Quân đã vào Trường Trung Học Tổng Hợp, đang di chuyển về Ngã Sáu Thị xã, và Khu Tư Dinh Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 BB.

Nhưng rồi người dân thị xã đã tuyệt vọng khi hay tin đơn vị Biệt Ðộng Quân xâm nhập thị xã chỉ để đưa gia đình tướng Tường, Tư lệnh Sư Ðoàn 23 BB ra khỏi thị xã mà thôi . . .

- 11giờ 20, sáng ngày 10 tháng 3, 1975, 1 chiếc T54 của cộng quân bị bắn hạ trước cổng tiểu Khu, đường Thống Nhất.-

- 1 giờ chiều ngày 10 tháng 3, 1975, Trung tâm Hành Quân Tiểu Khu bị pháo sập, mọi liên lạc bi gián đoạn,

- 2 giờ 20 chiều ngày 10 tháng 3 năm 1975, Tiểu Khu di tản ra Trung tâm huấn luyên của Trung Ðoàn 45 BB, cây số 5.

- 3 giờ 40 chiều cùng ngày, Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc gia di tản khỏi thí xã,

Và Banmêthuột lọt vào tay quân cộng sản.

Tất cả những sự kiện ấy, và hình ảnh tan hoang của phố thị hay Cuộc Cảnh Sát Quốc Gia Xã Lạc Giao, Tòa Hành Chánh, các khu công sở . . . mãi mãi như vết tích hằn sâu trong tâm trí Hải. Những cuộc trả thù cá nhân, những người làm chỉ điểm viên cho cộng quân lục soát tư gia của Sĩ quan, viên chức chính phủ, những hành động trả tư thù man rợ đến nay đã mấy mưoi năm nhưng vẫn như mới xảy ra đâu đây, ở hôm qua hay tuần trước trong trí óc anh!

Bao nhiêu sách vở, giấy tờ, văn khế, văn bằng, đều đem đốt hết hay bị đốt sạch, nhất là các sách ngoại ngữ, Anh Văn, Pháp Văn, Tự điển Anh Pháp hay Hán tự đều đốt hết.

Duy chỉ một thứ không đốt đó là gạo, cộng quân sau khi chiếm thị Xã, đã phá kho dự trữ lương thực Trung ương, trực thuộc Phủ thủ tướng lấy hết gạo chất lên các xe mô-lô-tô-va chở về hướng Băng Don, các dụng cụ y khoa, dược phẩm của các Bảo sanh viện,, bệnh viện, và các tiệm thuốc Tây, đều bị cộng quân hốt hết chở vô rừng.

Nỗi kinh hoàng và tình trạng khủng bố qua những việc lục soát, truy bắt, và thanh lọc xảy ra trên các khu phố, hay Chùa Khải Ðoan, Trường Tàu ở đường Y Ýut, đường Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Trãi, Võ Tánh, Hàm Nghi . . . mãi mãi là hình ảnh khủng khiếp, và hoang mang hằn sâu trong tâm trí những người dân thị xã, nhất là các gia đình sĩ quan cùng viên chức chính phủ, binh lính, cảnh sát hay Nghĩa quân và Nhân Dân tự vệ.

10 giờ 30 sáng ngày 11/3/1975, Hậu cứ Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh bị cộng quân tràn ngập, và thị xã Banmethuot hoàn toàn lọt vào tay cộng quân.

Từ đó, cảnh thê lương hoang tàn càng bi thảm hơn, nhưng trong lòng người dân vẫn còn nuôi hy vọng Banmêthuột nhất đinh sẽ được giải cứu, vì 4 Quận và 4 Chi Khu trực thuộc vẫn còn nguyên ven. Các vị Quận trưởng kiêm Chi Khu trưởng đều là những sĩ quan cấp tá giày dạn chiến trường, thêm vào đó, Liên đoàn 21 Biệt Ðộng Quân, Trung Ðoàn 44BB, 45 BB chưa hề chạm trán với địch quân.

Người dân thị xã lúc này lại cố gắng thoát khỏi thị xã để tránh bom đạn khi có lực lượng Tổng trừ bị đến giải tỏa. Hy vọng vẫn còn đây . . . ! Cho đến một ngày, ngày định mệnh của Banmêthuột và cũng là ngày mà những người lính anh dũng, thiện chiến của các đơn vị Biệt Ðộng Quân, Sư đoàn 23 BB cũng như các đơn vị trực thuộc Quân đoàn II bị bức tử, đó là ngày người ta nhận được tin Quân đoàn II di tản, và ngày 17 tháng 3 năm 1975, Phòng tuyến Phước An bị chọc thủng, tất cả đã tiêu tan.

Hải bắt đầu cuộc chạy trốn sự truy lùng của cộng quân và các tên chỉ điểm, đám công an 30, len lỏi từng khu ngoại ô, Trần Hưng Ðạo, Suối Ðốc Học, đến Suối Bà Hoàng, lần ra hướng Nhà Thờ Phú Long rồi đi về hướng Quốc lộ 21, mà lòng thầm tiếc nuối bỏ lại tình yêu và kỷ niệm một thời thơ ấu, một khoảng đời oanh liệt nơi vùng đất chôn nhau cắt rún, đã nuôi dưỡng anh từ thủa ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành..

Từ đây, Hải thất lạc với Chi và bao nhiêu đồng đội cùng đơn vị.

Và cuối cùng anh bị bắt ở khu rẫy Buôn Kô Tam, bị dẫn bộ qua đường rừng đến Thanh An, một Quận thuộc tỉnh Plei Ku. Ðoạn đường rừng mà sau nay mỗi khi nhớ lại, hay lúc kể chuyện tù cải tạo cho bạn bè nghe, anh gọi đó là đoạn đường "thương khó". vì mỗi lần bước chân đi là in nguyên dấu chân máu trên đường, da bàn chân bị lột hết, cộng quân đã bắt cởi dày đeo lên cổ, đi chân đất trên suốt quảng đường dài từ Buôn Kô Tam, Banmethuột đến Thanh An, Pleiku .

Ở Thanh An một năm đi hái trà làm cỏ chung với công nhân và dân địa phương, tù nhân luôn luôn được cán bộ vổ về "Ðảng và nhà nước không cho các anh về, chỉ vì sợ nhân dân quá thù hận các anh, sợ họ giết các anh để trả thù" Trong khi đó, hàng ngày đi làm chung với dân, anh và các bạn tù luôn tìm thấy cá khô nướng, và khoai lang nấu sẵn dấu dưới các cội trà phủ lá "Các bác ở nhà cũng không no đâu, nhưng chia sớt cho các con mà thôi, các con đánh giặc dỡ quá để bây giờ các bác và các con cùng chịu khổ!

Câu nói làm rơi nước mắt những người tù, nên có những lần quá cảm động, anh và các bạn tù đã không nỡ lấy cá, chỉ lấy khoai mà thôi. Và đó chính là lòng thù hận của nhân dân Miền Nam dành cho Ngụy quân, ngụy quyền mà cán bộ trại tù quen nói.

Khoảng tháng 9 năm 1976, anh được đưa về trại tù Mê Van, một mật khu của cộng quân nằm về phía Bắc, Tây Bắc Thi xã Banmethuột, cách thị xã khoảng 60 km đường chim bay. Tại đây, anh gặp lại những khuôn mặt thân quen ngày cũ như Ðại Úy Nghĩa (Phụng Hoàng), Ðại Úy Long (An ninh Quân Ðội ), Sơn, Tế (Quân Báo . . . Một số viên chức Hanh Chánh như anh Tăng (Ty Xã Hội), Anh Khôi, Anh Tín . . . và Chi, người bạn nối khố của anh, Quốc Anh, người bạn học thời Ðệ Nhất.

Sáu tháng sau, anh được lệnh chuyển trại cùng với 12 phạm nhân khác,(Phạm nhân là cách xưng của nhà tù Mê Van).

Ngày chuyển trai thật cảm động, đó là giờ cơm trưa, cán bộ võ trang đến từng trại đọc tên những phạm nhân chuyển trại và ra lệnh "Ai có tên trong danh sách này, phải thanh toán nợ nần với bạn bè, ai mắc nợ những phạm nhân được lệnh chuyển

trại này cũng phải thanh toán cho họ, sau khi ăn cơm xong, 1 giờ trưa, các anh tập họp trước văn phòng trại".

Rồi bạn bè trong trại, người gói cho mấy miếng đường thẻ, nắm thuốc lào, chén gạo nếp. . . là những thực phẩm rất quí của đời tù. Anh còn nhớ Trị đến thì thầm bên tai anh "Hãy nhớ giữ gìn sức khỏe và can đảm, tất cả đều là thánh ý mà thôi", rồi đút túi cho anh 4 viên đường thẻ, trước khi anh kịp mang ba lô bước ra khỏi trại.

Bẳng đi một thời gian rất lâu, anh mất hết tin tức các bạn bè cũ, cho đến ngày được tha, về Sàigòn những người đầu tiên mà anh găp lại đó là Nguyễn bá Trí (Ðốc sự Hành Chánh), Hồ Sĩ Thái (Nông cơ BanmêThuột) tại nhà thờ Chúa Cứu Thế trong buổi chầu chiều thứ 7, sau giờ chầu, 3 anh em rủ nhau đạp xe theo Nguyễn Thông Nối dài để dến Lê Văn Duyệt ở Cống Bà Xếp. Từ đây đạp đến chợ Bến Thành, qua Câu Lạc Bộ Học sinh Sinh Viên Nghệ Tĩnh Bình, 370 Lê Văn Duyệt, nơi mà 3 anh em một thời đã làm sinh viên nội trú suốt 4 năm, bây giờ căn nhà xây mặt tiền đã làm Tòa soạn báo Công Giáo Dân Tộc của Linh mục Trương Bá Cần.

Ở đây còn chôn đầy kỷ niệm của đời làm "précepteur" và thầy giáo dạy giờ ở các tư thục. Ðời sinh viên quả thật là thơ mộng, Tuy nghèo, nhưng tâm hồn lúc nào cũng thanh thản nhẹ nhàng, đầy phóng khoáng, có những lúc anh em gặp nhau, bàn tán về người đẹp, nhưng giai nhân không phải là học trò của mình mà là hai chị em cô chủ quán "Thạch Chè" nổi tiếng, nằm cùng dãy với Câu Lạc Bộ, cách một con hẻm và 4 căn phố.

Nói tới con hẻm này, lại nhớ tới xe Ðậu Ðỏ Bánh Lọc thêm dầu Chuối ngon nổi tiếng nhất nhì của Thành Ðô một thủa, ai ăn rồi đều muốn được ăn lại.

Sài Gòn bây giờ mang nỗi buồn thảm đạm, như xác người còn đó mà hồn phách đã tản lạc nơi đâu, những căn lầu hai bên đường đều phơi đầy quần áo đủ loại đủ màu trên ban-công, phố xá buồn thiu, mang nét hoang tàn, xác xơ như những phiên chợ chiều 30 Tết ở phố Quận ngày xưa.

Chợ Bến Thành sầm uất và phồn thịnh thủa nào, nay xơ xác còn thua một chợ nhỏ ở các tỉnh lỵ miền núi ngày trước, Quanh chợ toàn là những mặt hàng của Khu Dân Sinh, quần áo củ, vải miếng, dép da, bata . . . Ðúng là thảm trạng.

Con đường Huỳnh Thúc Kháng đã thành khu chơ Trời nổi tiếng, danh vang đến tận miền Tây, bán đủ các mặt hàng, từ áo lọt đến áo dài, nhưng toàn là đồ cũ, dân Saigòn hết tiền đem áo quần ra bán, rồi bàn ghế, đồ gia dụng, cho đến đồng hồ, dây chuyền . . . nghĩa là từ thượng vàng đến hạ cám đều có đủ, chỉ ngặt một nỗi là đồ đã được dân Saigon xài rồi đem bán lại, mà khách mua dĩ nhiên gia đình cán bộ hoặc cán bộ!

Một chợ trời nổi tiếng khác là khu chợ Nguyễn Thông, chuyên bán thuốc Tay, bia và rượu ngoại.

Chợ trời có khắp nơi trên đất Saigon, Tân Bình, Chợ Thiếc, Tân Ðịnh, Thị Nghè, Bà Chiểu . . . Ở đâu cũng là quần áo cũ và hàng tiêu dùng.

Có những ngày nhàn nhạ, Hải lang thang đến các khu chợ ÐaKao, Bà Chiểu... nhìn người mua kẻ bán, để nghe những câu hỏi của khách mua,

- Khoai mì này có nở không chị!?

- Bo bo này có bị sượng không chị!?

Có nhiều ngày, chợ không có khoai mì, không có bo bo, người ta ăn cháo rau muống! Và xếp hàng chờ mua khoai mì sượng của Hợp Tác Xã bán ra, hay bo bo mốc của Cửa Hàng Nhà nước.

Sàigòn hoa lệ, Hòn Ngọc Viễn Ðông, bây giờ là một bãi rác, và bổng nhiên mùi chợ cá ở đường Trần Quốc Toản ngày nào đã không còn nghe lại nữa!

Ngôn ngữ ngoài chợ ở Saigòn bây giờ là , "đổng hai cửa sổ, không người láỉ, ?cái nồi ngồi trên cái cốc?, ?Thuốc lá có cán?, ?đồ rỡm, báo cáo, đảm bảo . . . ? nghe rất lạ tai và đôi khi không hiểu đến ngớ ngẩn!

Số phận những người đi tù cải tạo về lại thê thảm hơn, chế độ quản lý người tù cải tạo trở về, hết sức tùy tiện, tùy từng phường , từng Quận. Có những Phường, người tù cải tạo được tha về, được công an Phường phát cho một cuốn tập có đóng dấu trên đầu mỗi trang, yêu cầu tù cải tạo phải viết vào đó công việc hàng ngày của mình, đi đâu, làm gì ở đâu . . . rồi mỗi sáng thứ 2 hàng tuần đem đến trình cho công an Phường, và dầu được tha về ở tại nhà mình với vợ con, vợ vẫn phải làm đơn bảo lảnh cho chồng xin tạm trú tại nhà của chính mình, và câu cuối cùng của tờ bảo lảnh tạm trú luôn luôn là "Tuyệt đối chấp hành lệnh của chính quyền địa phương và sẵn sàng đi Kinh Tế Mới khi được chính quyền địa phương bố trí ".

Những tù cải tạo không thể nào xin được việc làm, vì công an không bao giờ chứng nhận bản sơ yếu lý lịch cho tù, vì họ không có thường trú, nghĩa là không có tên trong tờ Hộ Khẩu của gia đình, ngoại trừ những người tốt nghiệp đại học hoặc trên đại học, tức là có Cử nhân, nhưng cử nhân Văn Khoa, Luật Khoa, nghĩa là các khoa thuộc khoa học Xã hội, lại không được hưởng theo chỉ thi 8 của Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành Ủy ký ban hành lúc bấy giờ .

Tháng 8, 1992, Hải theo diện HO qua Mỹ, cuốn phim xưa gác lại trong Hải, nhưng vẫn còn tiếp nối cho những người bất hạnh còn lại trên Việt Nam.

Nhìn lại chặng đường lịch sử và những chiến tích lẫy lừng của Quân Lực VNCH, từ Vủng Rô, Chiến khu D ..... của thời nền cộng Hòa mới phôi thai, cho đến Mậu Thân, Dak Tô, Ben Hét, Mùa hè đỏ lửa .... rồi Hiệp định Paris 27 tháng Giêng năm 1973, những tài liệu viết về chiến tranh Việt Nam, dân miền Nam càng hiểu rõ lich sử Việt Nam hơn .

Viêt Nam cộng Hòa nhận được viện trợ của Hoa Kỳ cho đến Hiệp định Paris 27/1/1973 thì viện trợ của Hoa Kỳ đã bắt đầu chấm dứt,

- 300 triệu viện trợ cho quốc phòng đã bị Quốc Hội Mỹ từ chối.

- Nhiên liệu cắt 50%,

- Vủ khí, đạn dược hạn chế tối đa, một khẩu M15, M16 chỉ còn 8 băng đạn, bom đã bị rút hết ngòi nổ. vào thời điểm đó khi các đơn vị ở chiến trường gặp khó khăn gọi về hậu cứ xin yểm trợ, luôn luôn nhận được công điện trả lời là " HÃY TẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG TIỆN CƠ HỮU" nghĩa là hậu cứ khôn gì để yểm trợ !

Hãy sử dụng những gì anh có!

Ðêm ngày 9/3/1975, quân cộng sản tấn chiếm chi khu Ðức Lập thuộc tỉnh Quảng Ðức, cách thị xã Banmethuột, tỉnh Darlắc, 60 km về phía Nam, Không quân yểm trợ chỉ có 2 phi vụ là bom, 2 phi vụ còn lại là dùng xăng bột bỏ vào thùng phi 200 lit để thay cho bom.

Với tình trạng ấy, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có dũng cảm và thiện chiến đến đâu cũng chỉ chóng chọi được từ 6 tháng đến một năm là cạn sạch khí cụ đạn dược.

Trong khi đó, quân cộng sản miền Bắc vẫn nhận viện trợ liên tục của cả khối cộng sản Bắc Âu, từ Hun-ga-ri, Bun- ga-ri, Ba lan, Tiệp khắc, Ðông Ðức cho đến Liên xô và Trung cộng . Vì thế nên khi cộng sản chiếm được miền Nam, Tổng bí thư đảng cộng sản đã nói, CHÚNG TA ÐÁNH MIỀN NAM LÀ ÐÁNH CHO LIÊN XÔ VÀ TRUNG QUỐC?

không hiểu hôm nay có đảng viên cộng sản nào còn nhớ được câu nói này không?

Quân lực VNCH đã rất giỏi, đơn thân độc mã chống với cả thế giới cộng sản mấy năm trời !

Và cũng đến hôm nay, chúng ta hiểu rõ chính sách của Hoa Kỳ, một chính sách mang tính giai đoạn, ngắn hạn, tùy thuộc hoàn toàn vào từng đời Tổng thống và đảng cầm quyền, cũng như chiến thuật SEARCH AND DESTROY của William C. Westmoreland, hay CLEAR AND HOLD của Creighton W. Abrams, những tư lệnh của đồng minh Hoa Kỳ thời đó.

Chỉ thương đất nước mình là một nước nhỏ, chỉ mong những người cầm quyền hôm nay ý thức được chủ nghĩa cộng sản là một ảo vọng và Xã Hội Chủ nghĩa chỉ là một khẩu hiệu của chính trị, như dân miền Bắc dạy người miên Nam XHCN = Xạo Hết Chổ Nói ! đế thoát khỏi ách của Trung cộng, và ảnh huởng của nước lớn.

Vã chăng, giữa kẻ cầm quyền và người bị trị, vĩnh viễn có một khoảng cách, dù là thánh nhân đi nữa, thì cá nhân cầm quyền hay đảng cầm quyền vẫn không thể thoát khỏi ma lực quyến rũ của quyền lực .

Gần 50 năm trôi qua, nhưng nỗi đau quay quắt chưa hề nguôi, niềm hy vọng đã trở thành mơ ước như bao chuyện thần thoại trong đời, và bao nhiêu đồng đội một thời đã rủ nhau lần lượt ra đi trong ngậm ngùi tức tưởi, mang hờn oan đến chốn tuyền đài .

Hải cúi xuống, dấu đi dòng lệ, cố xua đuổi những hình ảnh tang thương ngày ấy và lẫn trốn khúc phim xưa đang cuộn cuộn đi về trong trí óc anh.

Nguyễn Ðịnh

Mục Lục


7. Cải Xanh

Bạch Liên




Trong đời sống hằng, chúng ta ai cũng phải tất bật tìm kế sinh nhai. Công ăn việc làm mưu sinh chiếm nhiều giờ từ sáng sớm. Ðôi khi những buổi ăn trưa qua loa nhanh chóng để kịp trở lại với công việc còn đang dở dang trong ngày.

Những thức ăn nhanh cho no bụng khi hối hả ngược xuôi. Khi về đến nhà, ta sẽ có buổi cơm chiều thanh đạm với những món ăn hợp với khẩu vị của mình hơn. Một trong các món ăn chiếm phần quan trọng tối yếu trên bàn ăn là rau xanh tươi.

Dạo sau này chúng ta thường được báo chí nhắc nhở nhiều về sức khỏe. Rau cải tránh cho ta nhiều bệnh tật không ngờ có thể xảy ra. Rau nào cũng xanh tươi và đem lại chất xơ tốt lành.

Một trong các loại rau được nhắc đến đó là cải xanh con. Hình như tôi đọc nhiều bài viết nói về cải xanh con này trị bịnh Gout thì phải. Hôm nay chúng ta cùng thả tầm nhìn về một nông trại rau xanh, được ví như tấm thảm mượt mà trải trên mặt đất bằng phẳng. Dưới ánh nắng hoàng anh nhè nhẹ của vòm trời bình yên, những sợi nắng buông lơi xuyên qua lớp plastic của các dãy nhà kiếng rộng thênh thang.

Ánh nắng dịu dàng nhẹ lướt, vân vê các phiến lá cải non cho ta một khung trời tuyệt diệu. Lá cải mong manh vội vàng quyến rũ vạt nắng ấm nồng để tạo thành diệp lục tố, len lỏi theo những đường gân li ti, tô điểm cho phiến lá thêm xanh. Màu xanh non của lá cải như liều thuốc bổ, chữa trị bịnh Gout mà một số người Việt chúng ta đôi khi mắc phải.

Cây cải xanh hiền hòa vì không bon chen đua sắc với những loại rau khác.Thân cây mỏng manh, yếu gầy, không chịu được gió lạnh, không chịu được những ngày nắng gắt gay - nhưng lại rất tốt bụng. Vì là vị thuốc thảo mộc, giúp con người trị được những nỗi đau âm ỉ, nhức nhói trong thân người nhất là ở những khớp xương đầu gối.

Sáng nay thời tiết lành lạnh rất thích hợp cho tấm thảm cải xanh trải dài từng mảng ỏng ả, dịu dàng hứng đựng vạt nắng xiên nghiêng đang thầm len lén tràn vào những căn nhà kiếng to rộng, rất ấm áp.

Những hạt cải vừa được ươm trồng hôm qua sẽ uống no say giọt nắng nồng nàn chan hòa. Hơi nóng trong những căn nhà kiếng lúc nào cũng cao hơn nhiệt độ bên ngoài trời khoảng chừng mười lăm đến hai mươi độ F - Fahrenheit. Hơi nóng này cũng hâm ấm lớp đất mỏng đang phủ che các chồi mầm vừa hé mắt ngắm nhìn đất trời.

Những ngày sắp đến, cây cải bé tí li ti sẽ lớn dần theo sợi nắng yêu thương. Cái đọt non nũng nịu sẽ nhấp nhô cao vút. Khoảng ba hay bốn tuần sau đó thì cây cải xanh con đã được cắt sạch sẽ, và nằm gọn trong các bịch nylon trong suốt. Trên quày kệ ở góc hàng rau xanh tươi, cải xanh con chiếm một vị trí dễ thấy nhất trong các ngôi chợ Việt Nam.

Cây cải xanh luôn là liều thuốc tốt cho sức khỏe mọi người. Bên ngoài, mặt trời vừa nhoẻn miệng cười thật tươi. Những tia nắng lung linh buông lơi từ thiên đỉnh, bắc cầu xuống thăm hỏi trần gian. Cả hai cùng cuộn mình, đan chặt vào nhau tạo thành màu cam hồng thắm, chan hòa ánh bình minh - rộn ràng mở cửa một ngày mới hoan ca.

Nụ cười tủm toe trên khuôn mặt bầu bĩnh phúc, hậu hứa hẹn một ngày ấm nồng. Và cũng không quên mỉm cười với vuờn cải xanh mộng mơ.


Cải xanh liều thuốc từ trời
Ðau chân, nhức mỏi sẽ rời bay xa
Chứa đầy lục tố ngọc ngà
Chất xơ trị bệnh, đêm ngày lo âu
*
Cải xanh có chút cay lâu
Vị nồng như ớt, như dầu nóng thoa
Khi nào thân thể ốm o
Ăn nhiều hột cải, hết ho khò khè



Bạch Liên

Mục Lục


8. Mấy Sông Cũng Lội

Kim Loan




(Tháng Hai kể chuyện Tình Yêu)

Tình yêu thì ở nơi đâu cũng có, mùa nào cũng có (nào phải riêng Tháng Hai có Valentines), nhất là trong trại tỵ nạn khi mà nỗi buồn niềm vui mong manh luôn luôn hiện hữu. Nhưng đừng nghĩ rằng ở trại tạm dung, lộn xộn, thì được tự do hẹn hò yêu đương, mà còn có những trường hợp bị cấm đoán, ngăn cản. Không cách núi ngăn sông mà lòng phải nhớ nhung, gặp nhau lén lút, bí mật (vội vàng thay những lúc yêu người):

1.
Chàng và nàng là cư dân cùng lô nhà với tôi. Nàng qua trại cùng với bố mẹ, bà ngoại và hai đứa em trai. Là con gái mới lớn, con gái cưng của gia đình nên khi biết nàng quen với chàng thì cả nhà phản đối, lý do rất rõ ràng: chàng đã có một đời vợ bên Việt Nam. Dù chàng có giải thích đã ly dị vợ cũ, đường ai nấy đi, nhưng mấy ai tin ở cái hoàn cảnh trại tỵ nạn xô bồ xô bộn này! Cho nên kể từ đó, nàng bị gia đình ?kìm kẹp? sát nút, nhất cử nhất động đều có người đi theo, giám sát, cận kề. Mà cái trại thì nhỏ xíu như cái lỗ mũi, đâu thể giữ nàng mãi trong ?căn nhà? chật chội tù túng, mà hổng lẽ cả nhà cứ phải mất thời gian đi theo nàng cả ngày lẫn đêm? Nhưng làm gì làm, nhiệm vụ ?canh gác? con gái rượu vẫn được ưu tiên một. Vậy mà đùng một cái, tin đồn nàng ?có bầu râm ran cả khu nhà. Bà ngoại nàng qua nhà tôi kể lể than van: ? Trời ơi là trời, nhà tui canh chừng nó không hở phút giây nào, chỉ có điều thỉnh thoảng phải cho nó đi bộ ra ngoài đỉvệ sinh, đi tắm rửa, hoặc buổi chiều cho nó đi dạo vài vòng co giãn chân cẳng, trước giờ giới nghiêm luôn có mặt ở nhà, chẳng bao giờ đi đâu qua đêm, giờ chẳng hiểu sao nó lại mang bầủ!?
Ái chà, ngoại hỏi tui, tui biết hỏi ai, nhất là cái vụ ?không qua đêm mà vẫn mang bầủ- Ai biết đâu nà!

2.
Còn bác lớn tuổi kia, qua trại với cô con gái xấp xỉ tuổi băm (ba mươi). Chị ấy khá xinh nên được một anh chàng trong Ban An Ninh trại theo đuổi, nhưng chị không thích. Tuy nhiên, bác ấy thấy chàng ăn nói ngọt ngào, lại có ?chức sắc?, mỗi lần đến chơi đều mang theo những tin tức nóng bỏng về tình hình tỵ nạn, về cuộc thanh lọc khó khăn, nên bác nghĩ rằng biết đâu sẽ giúp ích được hai mẹ con trong cuộc thanh lọc và được đi định cư nước thứ ba. Bởi vậy bác cứ ép uổng chị. Mỗi lần chàng đến chơi, chị trốn qua nhà tôi, còn bác đem trà bánh ra tiếp khách rất ân cần nồng hậu. Chờ tối mịt, khách ra về rồi, chị mới về nhà, lần nào cũng bị bác càm ràm cả đêm, nghe nhức cái đầu. Ông bà ta nói ?nước chảy đá mòn?, ?đẹp trai không bằng chai mặt? quả chẳng sai. Một thời gian sau, chị lại cảm mến chàng. (Ủa, mà lần nào chàng đến chơi, chị cũng tránh mặt, vậy cảm mến lúc nào cà? Tôi thắc mắc lắm mà chưa có dịp hỏi!). Nhưng đời ai biết được chữ ngờ, oái ăm thay, lúc đó mẹ chị cũng vừa nghe được tin đồn về quá khứ ?lợn cợn? của chàng, nên đã trở mặt như trở bánh tráng nướng. Hễ chàng đến nhà là bác lạnh lùng, cầm cây chổi chà đuổi thẳng tay, mà còn kèm thêm mấy câu chửi mới ghê. Thế là hai anh chị phải hẹn hò lén lút. Vì tôi cũng có chút ?chức sắc? đi làm thiện nguyện trong trại, nên được chị nhờ vả, đến rủ đi chơi là bác vui vẻ đồng ý. Tội cho bác ấy, nào có biết đã ?nuôi ong tay áỏ là tôi. (bác nấu ăn rất ngon và rất quý mến tôi, hay để dành cho tôi những món mà tôi yêu thích). Giờ tôi ở ?ngã ba đường?, biết phải làm sao đây? Thôi thì ?một liều ba bảy cũng liềủ, thấy chàng và nàng nhớ nhau như Ngưu Lang Chúc Nữ, ray rứt quá, tôi cầm lòng hổng đặng. Tôi đành phảỉphản bội niềm tin tưởng của bác, đến xin cho nàng đi chơi, dẫn nàng ra điểm hẹn chàng đã đợi sẵn, rồi tôi đi về, để cho chàng và nàng tự do tâm tình ?buồn vui đời tỵ nạn?.

3.
Tôi quen khá thân với anh bạn làm bên văn phòng Cao Uỷ. Anh qua trại với đứa con gái mười tuổi. Rồi ?tình yêu không hẹn trước? cũng đã đến với anh giữa những chênh vênh hàng ngày của đời tạm dung. Nhưng đứa con gái cương quyết bảo vệ ba nó, vì nó còn nhớ thương mẹ của nó, đã qua đời mấy năm trước vì bịnh tim khi còn ở Việt Nam. Trái tim ngây thơ bé bỏng sợ ba nó san sẻ tình thương cho người phụ nữ khác mà bỏ bê nó chăng?. Ngoài giờ anh đi làm thì thôi, chớ về đến nhà là nó không rời anh nửa bước, mặt sưng mày sỉa khi cô bạn gái của ba đến chơi. Cho nên thỉnh thoảng anh cầu cứu tôi, với chút ?uy tín? là cô giáo lớp Việt Ngữ tỵ nạn của nó, anh đưa tiền nhờ tôi dẫn nó đi chơi, ăn hủ tíu, (dĩ nhiên là nó một tô, tôi cũng được một tô, chớ tôi đâu giúp miễn phí bao giờ). Ăn xong, hai cô trò lang thang trong trại cỡ ?vài ba tiếng để ba nó được thoải mái đi gặp người trong mộng cho vơi bớt nỗi nhớ nhung đợi chờ. (Yêu chi cho khổ không biết!)

Trong ba câu chuyện trên, chỉ có câu chuyện đầu tiên là tôi không dính dáng liên quan và họ đã có happy ending. Chàng đậu thanh lọc, nàng ôm con hồi hương về Việt Nam, sau đó chàng bảo lãnh nàng và con qua Úc đoàn tụ, và câu chuyện chàng đã ly dị vợ trước khi đi vượt biên là có thật trăm phần trăm. Thêm nữa, một thời gian sau, khi làm ăn thành công, ổn định cuộc sống, chàng còn bảo lãnh cả bố mẹ vợ, em vợ, bà ngoại vợ qua bên xứ Kangaroo, đại gia đình sum vầy hạnh phúc.
Riêng hai câu chuyện sau, tôi có ?nhúng tay vàỏ, làm ?ông tơ bà nguyệt?, làm ?cây cầu Ô Thước?, âm thầm hỗ trợ hết mình ?tình yêu trong gian khó? của họ, thì kết quả là họ?tan vỡ, mỗi người một phương trời, nghìn trùng xa cách.
Từ đó tôi mới biết mình là một ?bà maỉ vô duyên!!

KIM LOAN

NẾU ?
(Cho Valentines và những cuộc tình lỡ ?)

Nếu được trở lại ngày xưa ấy
Chắc chắn em sẽ tìm gặp anh
Lòng em rộn ràng vui biết mấy
Nhìn đi anh, mắt em long lanh

Nếu được trở lại thuở mười tám
Em sẽ nói yêu, anh biết không?
Những lần gặp nhau trên đường vắng
Nghe đi anh,?em kể chuyện lòng

Nếu được trở lại đêm mưa đó
Em sẽ ngây thơ, khóc dỗi hờn
Trời khuya em lạnh vì cơn gió
Có anh đưa về, ấm nhiều hơn

Nếu dòng thời gian trôi trở lại
Xin anh đừng hờ hững quay đi
Ðừng để trái tim em thổn thức
Cho nước mắt em hoen bờ mi

Nhưng đời vẫn chỉ là cơn mộng
Kỷ niệm xưa em sẽ tôn thờ
Vì tình em bao la biển rộng
Như sóng kia luôn mãi yêu bờ

Và nếu có ngày mình gặp lại
Tuổi trẻ qua rồi, em vẫn vui
Giây phút tương phùng, sẽ rất đẹp
Khi anh nắm tay em, anh ơỉ

Thôi thì kiếp này chẳng có nhau
Kiếp này chẳng nợ nần gì nhau
Nỗi buồn ngọt ngào anh trao tặng
Xin gửi lại anh một kiếp sau

Edmonton, Valentines 2022
KIM LOAN


Kim Loan

Mục Lục


9. Bài Thơ Phiên Chợ Ðào San

Ðặng Xuân Xuyến




BÀI THƠ "PHIÊN CHỢ DÀO SAN"
CỦA TRƯƠNG HỮU THIÊM

*

PHIÊN CHỢ DÀO SAN
.

Vó câu khua rầm rập
Nhạc dập dồn lưng mây
Trai mười mường phầm phập
Gái chín bản phây phây.

.

Có vợ, đem theo vợ
Có chồng, rủ cả chồng
Chẳng có cứ đến chợ
Sẽ gặp người đi không.

.

Bát này rồi bát nữa
Rượu đầy như tình đầy
Vòng xoè làm bằng lửa
Tiếng đàn cháy trên dây.
.

Uống như chưa từng uống
Người say, núi cũng say
Bạn từ lưng trời xuống
Chân dính đầy mây bay.
.

Tiếng người xen tiếng lá
Tiếng lá lẫn tiếng chim
Tiếng chim chen tiếng đá
Tiếng đá hoà tiếng tim.

.

Áo bên hoa sặc sỡ
Khèn theo gió véo von
Thề nguyền trao giữa chợ
Nỗi niềm gửi lên non.

.

Họp ở trong không đủ
Thì kéo nhau ra đường
Ngựa hí dồn giục chủ
Lưng đầm đìa hơi sương.

.

Mật ong và thổ cẩm
Thuốc bắc và chè san
Thay vì làm tính nhẩm
Nhặt đá xếp lên bàn.
.

Ðã bán, rẻ cũng bán
Ðã mua, đắt cũng mua
Bán như là giời bán
Mua như là vua mua.

.

Ăn, ăn toàn thắng cố
Uống, uống toàn rượu ngô
Uống đến khi rượu đổ
Người đứng ngủ dưới ô.
.

Mỗi năm mười hai tháng
Mỗi tháng có bốn phiên
Suốt từ ba giờ sáng
Náo nức một vùng biên.

*

Sớm mai leo ngược dốc
Trở lại với non ngàn
Lòng như hòn đá hộc
Lăn xuôi về Dào San...

*.

TRƯƠNG HỮU THIÊM

.

LỜI BÌNH:

Bài thơ "Phiên chợ Dào San" của nhà thơ Trương Hữu Thiêm, đã hớp hồn tôi ngay từ những câu thơ đầu. Chất hoang dã đại ngàn đậm đặc trong 4 câu khổ đầu bài thơ đã tạo ấn tượng tức thì:

"Vó câu khua rầm rập

Nhạc dập dồn lưng mây

Trai mười mường phầm phập

Gái chín bản phây phâỵ"

Các cặp từ láy: "rầm rập", "dập dồn", "phầm phập", "phây phây" được nhà thơ Trần Hữu Thiêm sử dụng thật đắc dụng. Chỉ với 20 chữ cho 4 câu thơ, ông đã khiến người đọc như đang chứng kiến những hình ảnh sống động của người của ngựa giữa đại ngàn lộng gió.

Những thước phim thật đẹp, đẹp những nét hào sảng và tráng lệ của miền sơn cước: Một sớm tinh mơ, những vó ngựa từ đỉnh núi cao, cao đến chọc trời "rầm rập" lao xuống phiên chợ Dào San, chợ phiên của người Mông, người Thái, người Dao,... Trên lưng ngựa là các chàng trai cường tráng với nét đẹp phóng khoáng của núi rừng và các cô gái hây hẩy sắc hương bản mường, náo nức về chợ như háo hức về lễ hội tình yêu. Những hình ảnh ấy, những thước phim ấy quyện lấy nhau, hòa vào nhau trong những nét đẹp rất riêng chỉ có ở văn hóa vùng cao Tây Bắc.

Ðọc những câu thơ thật hay này tôi chợt nhớ tới những câu thơ tài hoa của nhà thơ Nguyễn Khôi trong bài thơ "Xóm Cỏ":

"Ta là kẻ lạc loài chán chê Phố Thị

Chàng Nhà Quê mê kéo vó đêm

Thả hồn thơ cùng chị Hằng "tăm" cá

Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên..."

"Tôi ngẩn ngơ với câu: ?Cánh tay trần ?cất? cả ánh trăng lên...?.

Nét tài hoa của nhà thơ Nguyễn Khôi ở những câu thơ này là sử dụng câu chữ rất "đắc địa", đặt đúng vị trí, đúng hoàn cảnh, đúng ngữ cảnh, không thể xáo trộn, thay đổi. Ví như câu: "Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên..." nếu bỏ hoặc thay chữ "trần" bằng một chữ khác thì hình ảnh "cánh tay trần" rất đẹp, gợi nét vạm vỡ, phong trần và đậm đặc chất đàn ông sẽ không còn nữa, câu thơ sẽ thiếu ?lửả, nhạt đi và kém hay. Hoặc nếu thay từ "cất" bằng một từ khác thì câu thơ: ?Cánh tay trần ?cất? cả ánh trăng lên...? vốn hút hồn người đọc bởi hình ảnh thơ mộng, đẹp phóng khoáng kiểu Chử Ðồng Tử an nhiên tự tại giữa bãi Tự Nhiên: ?cất? cả ánh trăng lên...? sẽ không còn nữa, câu thơ cũng vì thế mà mất hay, hết duyên." - (Mơ Quê Trong "Xóm Cỏ" Của Nguyễn Khôi" - Ðặng Xuân Xuyến)

Trở lại bài thơ "Phiên chợ Dào San" của nhà thơ Trương Hữu Thiêm với 4 câu thơ nối tiếp:

"Có vợ, đem theo vợ

Có chồng, rủ cả chồng

Chẳng có cứ đến chợ

Sẽ gặp người đi không."

Với cách ngắt nhip 2/3 bằng dấu phẩy ở câu "Có vợ, đem theo vợ", "Có chồng, rủ cả chồng" nhà thơ Trương Hữu Thiêm đã nhấn nhá rõ thêm tính thật thà, vô tư của những trai bản gái mường, như minh định bản tính hồn hậu, thuần khiết, chẳng có gì cần phải giấu giếm hay ý tứ bằng những lời xã giao, dối lòng của người Mông, người Thái, người Dao,... Những rủ rê minh bạch ấy, có chủ đích rõ ràng: Ðến chợ để mua hàng hóa, để giao lưu bè bạn, để thêm ấm tình lứa đôi.... Có lẽ, đây là nét đặc trưng rất riêng của văn hóa chợ Dào San, chỉ ở vùng Phong Thổ, Lai Châu mới có tập tục độc đáo này.

Những khổ thơ kế tiếp kể về những hoạt động của phiên chợ Dào San với những câu thơ tinh tế, đặc sắc, đẹp như những viên ngọc lấp lánh làm ngẩn ngơ người đọc:

- "Vòng xòe làm bằng lửa

Tiếng đàn cháy trên dây"

- "Bạn từ lưng trời xuống

Chân dính đầy mây bay"

- "Áo bên hoa sặc sỡ

Khèn theo gió véo von

Thề nguyền trao giữa chợ

Nỗi niềm gửi lên non."

- "Ngựa hi dồn giục chủ

Lưng đầm đìa hơi sương",

- "Uống đến khi rượu đổ

Người đứng ngủ dưới ộ"...

Những câu thơ đậm nét hương rừng gió núi và đẫm chất trai bản gái mường đẹp mê hồn như thế không phải cứ sống lâu ở miền núi là sẽ viết được mà những câu thơ đấy đã được thẩm thấu, chiết xuất từ hồn thơ thấm đượm hơi thở của núi rừng, từ cách quan sát tinh tế, cách dùng câu chữ độc đáo, sáng tạo của nhà thơ Trương Hữu Thiêm mà trở nên bừng sáng.

Những câu thơ mộc mạc, giản dị mà long lanh trong ?Phiên chợ Dào San? đã tạo cảm giác gần gũi, tâm trạng phấn chấn, dẫn dắt người đọc cuốn theo câu chữ bài thơ để háo hức cùng nhà thơ Trương Hữu Thiêm tham dự phiên chợ Dào San.

Sự độc đáo của "Phiên chợ Dào San" còn ở những quan sát tinh tế, những chi tiết rất thực:

"Mật ong và thổ cẩm

Thuốc bắc và chè san

Thay vì làm tính nhẩm

Nhặt đá xếp lên bàn."

Hàng hóa chỉ là những sản phẩm tự cung tự cấp của người dân bản địa: Mật ong, thổ cẩm, thuốc bắc, chè san, rượu ngô, thắng cố... Và người bán người mua cũng rất mộc mạc nét "chân quê" chất phác: "Thay vì làm tính nhẩm / Nhặt đá xếp lên bàn".

Trải dọc bài thơ là những hình ảnh đẹp hào sảng, phóng khoáng tạo những cảm giác hứng khởi, phấn chấn với bạn đọc thì đến khổ thơ này nhà thơ Trương Hữu Thiêm lại làm lắng lòng bạn đọc với những hình ảnh chân thật đến nhoi nhói lòng. Hình ảnh người bán hàng: "Thay vì làm tính nhẩm / Nhặt đá xếp lên bàn" đã găm sâu vào trí nhớ người đọc bởi những hình ảnh độc, lạ mà ám ảnh chỉ có ở "Phiên chợ Dào San".

Khổ thơ cuối khép lại bài thơ với những nốt nhạc trầm nhưng những câu chữ tinh tế đầy thi tứ thi ảnh thấm đẫm chất hương rừng gió núi của "Phiên chợ Dào San" đã kịp găm sâu vào trí nhớ của người đọc khiến người đọc cũng bồi hồi với nhà thơ: ?Lòng như hòn đá hộc / Lăn xuôi về Dào San...?.

*.

Hà Nội, 15 tháng 2-2022

Ðặng Xuân Xuyến

Mục Lục


IIỊ Hộp Thư Toà Soạn ___________________________________________________



Nhận Ðược Tin Buồn Hiền Thê của nhà thơ Hàn Thiên Lương là Chị Trần Ngọc Liên, pháp danh Viên Ngọc vưà qua đời tại Oregon, USA . Thành thật chia buồn với anh Hàn Thiên Lương và gia đình. Cầ`u mong hương linh Chị sớm tiêu diêu miền Cực Lạc.

BBT Giao Mùa

































Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 239 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị

Mục Lục


Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà: 1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com 4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Nguyệt San Giao Muà Homepage: http://www.GiaoMuạcom Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà: Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất : 1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode 2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy 3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc 4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện. 5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng 6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ

Ðịa Chỉ Liên Lạc:

Nguyệt San Giao Muà
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

Trang Nhà 

Web Counters
Web Site Hit Counter

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors