Số 189
Ngày 1 tháng 1 năm 2018
Nguyệt San Giao Mùa
P.O. Box
378
Merrifield, Virginia
22116
USA
I . Thơ _______________________________________________________________________
1. Gửi Thêm Lời Mưa Huế | ______ Trần Huy Sao | ||||||||||||||||||||||
2. Tưởng Nhớ | ______ Vân Hà | ||||||||||||||||||||||
3. Noel Nhớ Anh | ______Dạ Lan | ||||||||||||||||||||||
4. Thủy Biều | ______ Sông Cửu | ||||||||||||||||||||||
5. Khúc Quanh | ______ Lúa Vàng | ||||||||||||||||||||||
6. Ngày Em Về... | ______ Hồ Chí Bửu | ||||||||||||||||||||||
7. Hương Xưa Quyện Gót... | ______ Tình Hoài Hương | ||||||||||||||||||||||
8. Biển: Sóng Và Bờ Cát | ______ ChinhNguyên/H.N.T. | ||||||||||||||||||||||
9. Mùa Ðông Nhớ Mẹ |
______ Hàn Thiên Lương 10. Những Kiếp Người Lênh Ðênh |
|
______ Nguyễn Thị Thanh Dương | 11. Gởi Người Tôi Yêu
|
|
______Song An Châu | 12. Nhớ Huế Ðêm Xưa |
|
______ ÐÔNG HÒA Nguyễn Chí Hiệp | 13. Vùng Nước Lợ |
|
______ Chương Hà |
14. Hàm Ơn Em |
|
______ Lê Miên Khương |
15. Xuân Trắng Niềm Xa |
|
______ Trần Ðan Hà |
16. Chỉ Một Lần Thôi ! |
|
______ Á Nghi |
|
II . Văn _______________________________________________________________________
1. Số Sát Phu ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương | 2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương |
3. Chuyện Ở Ðầu Sông (tiếp) ___________ Phan Thái Yên |
4. Chuyện Cây Sơ Ri ___________ Trần Thành Mỹ |
5. Tình Già ___________ Hai Hùng SG |
6.Giấc Mơ Việt Nam ___________ Nguyễn Ðịnh |
7. 20 Năm Trôi Qua ... ! ___________ _Ximuoi_(NXVK) |
III . Trả Lời Bạn Ðọc__________________________________________________
1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Ðọc _______ Ban Biên Tập |
I . Thơ __________________________________________________
II . Văn___________________________________________________________
Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Huấn Luyện Phi Hành (truyện dài nhiều kỳ) Tình Hoài Hương
Tình Hoài Hương
Phan Thái Yên
Phan Thái Yên
Trần Thành Mỹ
Trần Thành Mỹ Hai Hùng SG
*
Ngồi dựa lưng vào gốc Dừa nằm ven bờ con rạch chạy dài trước nhà, chị Hai với đôi mắt đăm chiêu và đượm buồn, chị nhìn về phía cây cầu ván bắt qua phía bờ bên kia con rạch, nơi đó đã in dấu nhiều kỷ niệm khiến chị buồn ảo não, trời càng về chiều những tia nắng vàng vọt còn sót lại dường như nó cố "len lõi" chiếu xuống mặt đất trước khi tắt lịm để nhường lại bóng đêm nhanh chóng bao phủ vạn vật.. Hai Hùng SG Nguyễn Ðịnh
Nguyễn Ðịnh _Ximuoi_(NXVK)
_Ximuoi_(NXVK) IIỊ Hộp Thư Toà Soạn
___________________________________________________
Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà:
1) Ðể vào danh sách của NSGM (subscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
Ðịa Chỉ Liên Lạc:
Nguyệt San Giao Muà
Copyright
2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors
Tuổi nào cũng có buồn vui của tuổi,
Người tuổi Dần thì có tội tình gì !,
Mà người đời gọi họ ?Số sát phủ,
Cầm tinh con Cọp sao mà khổ thế !!!
Hiền Lương và Phong cùng ngồi trên chiếc ghế xích đu trong vườn bên cạnh những chậu hoa đủ loại, có hoa màu đỏ, màu tím, màu vàng v..v. và trên đầu họ là giàn hoa TiGon leo buông xuống những chùm hoa màu đỏ hồng thật đẹp.
Cảnh vườn yên tĩnh chìm trong hoa lá, nơi đây là chỗ từng chứng kiến những lời yêu lời nhớ của hai người, lần nào đến nhà thăm Hiền Lương, Phong đều thích theo nàng ra vườn.
Chắc đã dự định từ trước Phong cầm bàn tay người yêu ấp ủ và nghiêm trang nói:
- Anh có được phép sẽ đeo chiếc nhẫn cưới vào tay em không?
Như một phản ứng tự nhiên Hiền Lương rụt vội bàn tay về:
- Anh làm em bất ngờ qúảanh ngỏ lời đột ngột qúả
- Anh đã từng chờ mong, em không chờ mong saỏ, chúng mình sẽ cưới nhau nhé?
Hiền Lương đứng ngay dậy nét mặt nàng thoáng vẻ lo ngại và buồn buồn:
- Anh ơỉem ?.chưa sẵn sàng?
Phong ngạc nhiên trước thái độ của nàng:
- Em sao thế? chẳng lẽ em không muốn tình yêu của chúng ta đi đến kết thúc tốt đẹp là hôn nhân à?
- Anh vội vàng qúa, anh biết gì về em chứ? Chúng ta chỉ mới quen và yêu nhau chưa đến một năm?
Phong mỉm cười kéo tay nàng ngồi xuống ghế:
- Tưởng gì, anh biết rất rõ rằng em là một cô gái xinh và hiền lành tử tế như cái tên của em. Thời gian dài ngắn không thành vấn đề, có những cặp yêu nhau tìm hiểu nhau cả mấy năm trời mới cưới mà vẫn đùng đùng chia tay y như họ mới quen nhau hôm qua và hôm nay phát giác ra là không hợp nhau.
- Mình khác họ khác anh ạ. Em?em chỉ muốn?. anh suy nghĩ kỹ?
Phong không hài lòng, trách móc:
- Bấy lâu em chưa thật lòng yêu thương anh sao?. Từ ngày yêu nhau chưa bao giờ anh nghe em nói xa nói gần nhắc nhở đến chuyện cưới hỏi..
Thất vọng và tự ái Phong đứng dậy bỏ ra về mặc cho Hiền Lương ngồi lại một mình với cõi lòng bối rối ngổn ngang,.
Nàng vẫn ngồi đây, không dám vào nhà sợ mẹ bắt gặp vẻ mặt buồn bã hoang mang của nàng mẹ lại buồn lây. Nhà chỉ có hai mẹ con buồn vui gì cũng chia hai.
Khi Phong ngỏ lời cầu hôn tâm trạng Hiền Lương vừa mừng vui cuống quýt vừa tràn ngập âu lo, điều mà nàng âu lo ấy trước sau gì cũng đến, thế mà nàng vẫn giật mình và không thể kềm chế được đã thốt nên lời làm cho Phong hờn giận.
Hiền Lương đã trải qua một cuộc tình cũng thương yêu thắm thiết như với Phong bây giờ.
Ngày ấy nàng vừa tốt nghiệp đại học còn Phú đang là kỹ sư, họ quen nhau sau một lần gặp gỡ và tình yêu đã nảy nở.
Khi Phú ngỏ lời muốn cưới Hiền Lương gia đình anh đã phản đối quyết liệt chỉ vì Hiền Lương tuổi Dần, có hai gò má cao. Mẹ Phú đã gay gắt và chì chiết phân tích cho con trai hiểu:
- Con gái đã tuổi Dần hai gò má lại cao, chữ ?sát phủ hiện rõ trên khuôn mặt nó, con biết chưa?. Tóm lại là cô ta có số ?sát phủ con mà lấy nó thì không vong mạng sớm cũng khổ cả đời.
Nhưng Phú đã quyết liệt, hết năn nỉ dịu ngọt đến dọa dẫm đủ điều, cuối cùng mẹ Phú cũng phải miễn cưỡng đồng ý. Hai bên đã định ngày làm đám hỏi.
Phú đã thành thật kể lại cho nàng nghe những điều ấy và cũng để chứng tỏ cho Hiền Lương biết là anh đã vì nàng mà tranh đấu với gia đình như thế nào.
Thế mà trước đám hỏi chỉ 1 ngày Phú đã tử nạn vì tai nạn xe cộ. Anh chở mẹ đi thăm một người họ hàng đang nằm bệnh viện, trên đường về một xe tải đã tông vào xe Phú, anh chết ngay tại hiện trường còn mẹ Phú thì may mắn chỉ bị thương nhẹ.
Ôi, cái tin đến với Hiền Lương thật khủng khiếp, nàng đã chuẩn bị đủ mọi thứ cho ngày đám hỏi với người mình yêu thương, váy áo, nữ trang, kiểu tóc.v..v..vậy mà tất cả đã biến thành ác mộng.
Càng đau đớn hơn khi Hiền Lương đến nhà quàn dự đám ma Phú thì bị mẹ Phú cấm cản thẳng tay, nét mặt bà đầy oán trách giận dữ:
- Cô không thể nhìn mặt nó, tuổi con tôi và tuổi cô không hợp nhau. Cô đừng theo ám nó nữa, hãy để giây phút ra đi của nó được thảnh thơi, cho nó được đầu thai kiếp khác không có bóng hình cô..
Hiền Lương chỉ biết nài nỉ:
- Cháu xin bác cho phép cháu nhìn mặt anh Phú và tiễn đưa anh lần cuối.
Mẹ Phú vẫn giữ nguyên thái độ:
- Con tôi chết vì ?dính líủ đến cô, đến tuổi Dần của cô đấy, cô chưa vừa lòng sao?
Hiền Lương biết người mẹ đang đau đớn vì cái chết của con và bà không ưa gì nàng nên bà có thể nói lên những điều tàn nhẫn như thế hoặc hơn nữa.
Nàng đành làm một kẻ không quen hôm đám ma Phú, chỉ đứng ở phía xa tránh mặt mẹ Phú và những người trong gia đình Phú.
Hôm sau nàng đã lặng lẽ mang đến mộ Phú một bó hoa tươi tạ lỗi cùng người chồng không bao giờ cưới.
Sau chuyện hôn nhân không thành ấy Hiền Lương đã bị một cú ?sốc? nặng, bị hụt hẫng, nàng xuống tinh thần rất nhiều.
Xưa nay nàng không tin vào những điều tướng số hay dị đoan, chuyện Phú chết không có gì liên quan đến nàng, hai người chưa đám cưới, chưa đám hỏi. Phú chở mẹ đi thăm người thân bên nhà Phú vậy mà người ta cũng quy tội cho nàng.
Nhưng Hiền Lương vẫn hoang mang không thể nào giải thích nổi, nếu Phú không quen biết, không định cưới hỏi nàng thì chuyến xe định mệnh hôm ấy có xảy ra không? Có phải ?số sát phủ của nàng như cánh tay ma ám đã vươn ra bao trùm lên cuộc đời Phú và đẩy anh vào con đường tử vong đột ngột không??
Hiền Lương đã luôn đau đớn tự dằn vặt vì tuổi Dần của mình mà đã hại Phú, nàng đã mấy lần hỏi mẹ:
- Mẹ có tin tuổi Dần cao số, sát phu không? Có phải vì con mà anh Phú chết không?
- Khó có thể giải thích được, cái chết và sự sống đều có định mệnh cả rồi. Theo mẹ tuổi nào cũng có thể may mắn hay rủi ro. Với người tuổi Dần, có thể đúng với người này lại không đúng với người khác, mẹ nhớ ngày xưa còn ở Việt Nam có mấy chị tuổi Dần cuộc sống vẫn hạnh phúc êm ả, nhưng có chị cùng xóm tên Nhàn, tuổi Dần, gò má cao, chẳng nhàn hạ gì cả, vất vả trăm chiều. Người chồng đầu chết trận, thôi thì mạng người giữa chốn chiến trường như chiếc lá giữa chốn phong ba rơi rụng sống chết bất cứ lúc nào. Nhưng đến người chồng thứ hai thì chết lãng xẹt, trèo lên cây dừa xiêm hái trái thì bị giây điện giật chết tươi, treo lủng lẳng trên cây dừa. Từ đấy cô Nhàn ở gía luôn, cô không dám lấy ai mà cũng chẳng ai dám lấy cô.
Hiền Lương đau khổ:
- Chắc con cũng ở vậy luôn qúa, lấy chồng chỉ làm khổ người ta, giết người ta.
Mẹ an ủi:
- Mẹ đã nói tùy số mệnh mỗi người mà. Bởi thế khi sinh con vào năm Dần mẹ đã đặt tên con là Hiền Lương cho ?giảm nghiệp? kẻo cứ bị mang tiếng ác là số sát phu. Ngay cuộc đời mẹ đây, tuổi con rồng, lấy cha con cũng tuổi rồng, hai con rồng bay bướm lộng lẫy thế mà cuộc đời chẳng huy hoàng gì, rồi cha con mất sớm khi mẹ hãy còn xuân xanh.
- Nhưng con vẫn thấy lo lo làm sao ấy mẹ ạ.
- Coi như Phú chết tại vắn số, con đừng mang mặc cảm tội lỗi tại con cho khổ vào thân.
Sau hai năm nỗi kinh hoàng vì tuổi ?sát phủ ám ảnh Hiền Lương cũng nguôi ngoai đi, nàng đã gặp Phong và tình yêu lại bắt đầủ
Nhưng chẳng hiểu sao khi Phong ngỏ lời cầu hôn thì những hình ảnh xưa, kỷ niệm xưa với Phú và mẹ Phú lại lù lù hiện về, nàng cảm thấy mình bị tổn thương và đồng thời cũng e ngại làm tổn thương người khác.
Phong còn đầy đủ cả cha lẫn mẹ, cha mẹ Phong sẽ không đời nào chấp nhận con trai họ cưới một cô dâu tuổi Dần như nàng và thảm kịch kinh hoàng như Phú có thể tái diễn???
Hiền Lương vẫn lặng người trên ghế sau vườn với bao điều trăn trở, nàng quyết định sẽ nói cho Phong biết nàng tuổi Dần rồi mặc sự đời muốn ra sao .
Bỗng cánh cửa vườn mở ra và Phong trở vào như cơn gío lốc không báo trước:
- Nãy giờ em vẫn còn ngồi ở đây sao?
Nàng thẫn thờ:
- Tại sao anh trở lại? anh có biết là lời cầu hôn của anh làm em buồn hơn vui không?
Phong đứng đối diện Hiền Lương, nét mặt căng thẳng:
- Anh xin lỗi đã nóng nảy bỏ về, anh về nhà trong nỗi bực mình băn khoăn và thất vọng, chẳng hiểu vì sao em lại đối xử với anh như thế? Hai chúng ta đang có tình yêu thật đẹp, thật chân tình nên anh phải trở lại hỏi cho ra lẽ, vậy em nói đi, nói đỉanh cũng đang nóng lòng muốn nghe đây. Có phải em đang bắt đầu chán anh hay em đang hiểu lầm anh điều gì?
Hiền Lương vẫn ngồi và Phong vẫn đứng đối diện nàng. Hiền Lương buồn rầu và chậm rãi kể hết những gì mà nàng vừa nhớ lại, vừa suy nghĩ, kể cả cái cảm giác tủi thân mặc cảm có tội khi bị mẹ Phú kết tội còn ám ảnh nàng không nguôi.
Hiền Lương thêm nụ cười buồn và cay đắng kết luận:
- Bây giờ anh đã hiểu rồi, em tuổi Dần cao số đấy, hai gò má cao đấy, có số ? sát phủ đấy. Anh có giỏi thì cưới em đỉ
Nét mặt của Phong nhanh chóng chuyển sang tươi vui, hóm hỉnh:
- Ôi trời ôi, thì ra thế ? em làm anh hết hồn suy nghĩ lung tung, may mà lúc nãy anh tức giận trở về nhà không đâm đầu vào xe tự tử vì thất vọng, thất tình . Này em, việc gì mà em phải thách đố, hằn học và bi quan thế?Anh sợ gì mà không dám cưới em chứ ?
Giọng nàng vẫn thách thức:
- Anh không sợ tai họa dến với anh à?
- Anh có ?kinh nghiệm qua vài câu chuyện hôn nhân với người tuổi Dần rồi, anh quen thằng bạn đã có vợ tuổi Dần.
Hiền Lương sốt ruột ngắt lời:
- Rồi kết cuộc anh ta ra sao?
- Chết ngỏm chứ saỏ.
- Trời ơi, cũng tại cô vợ tuổi Dần hả anh ?
- Em đừng vội thất kinh, bình tĩnh nghe anh kể từ đầu đến cuối hãy kết luận, cô vợ hết sức thương yêu chiều chuộng chồng, không biết chỉ vì tình yêu hay cộng thêm cái mặc cảm tuổi Dần của mình mà hết lòng với chồng như vậy, ai nhìn vào cũng thấy anh ta thật hạnh phúc, may mắn. Nhưng người chồng vốn tính bay bướm trăng hoa chẳng bao lâu thì chán vợ, chán cái cô tuổi Dần mà anh ta đã trầy da tróc vẩy vượt mọi khó khăn rào cản của gia đình của họ hàng mới cưới được cô. Anh ta li dị vợ vì có tình yêu khác, họ chưa có con, nên gia đình anh ta hoàn toàn hài lòng vì anh ta đã thoát khỏi tay cô vợ có số sát phu.
Cưới cô vợ thứ hai không phải tuổi Dần, gia đình coi bói, coi tuổi, coi tử vi đều rất hợp, sẽ sống lâu trăm tuổi. Vậy mà chỉ trong một lần uống rượu về anh ta đi tắm và ?trúng gío chết tốt.
Hiền Lương thở phào:
- Ðấy, nếu anh ta chết với đời vợ trước thì lại mang tiếng cho người tuổi Dần.
Phong cũng thở phào như vừa trút xong một gánh nặng:
- Vậy mà anh tưởng em có chuyện gì ghê gớm lắm, không ngờ thời đại thế kỷ 21 này, ngay trên đất Mỹ phương tây văn minh này người ta vẫn còn tin vào dị đoan, tướng số. Em là tuổi Dần có cao số đến đâu anh cũng sẽ cưới em.
- Chuyện anh vừa kể là chuyện của người ta, nhưng còn cha mẹ anh, họ sẽ coi tuổi, sẽ xem ngày để làm đám cưới và nảy sinh ra bao nhiêu thứ cản trở khi biết em tuổi Dần, hai gò má cao..
- Anh lại yêu hai gò má cao cao của em nhất, thế mới lạ, nhờ hai gò má mà mặt em có những nét gây ấn tượng khó quên cho người ta khi đối diện, lần đầu tiên gặp em, anh tương tư hai gò má cao trên khuôn mặt thanh tú của em đấy.
Hiền Lương nghi ngờ:
- Anh đang nói an ủi em phải không? Thay vì chê hai gò má em gây ấn tượng sát phu, anh thưởng cho nó món qùa tương tư ai mà tin nổi.
- Nhưng đấy là sự thật, nếu anh là đạo diễn nét mặt này nhất định phải vào một vai chính nào đó.
- Thôi anh đừng nịnh, đừng đùa dai và nói lan man với em nữa. Em vẫn đang lo ngại phản ứng của cha mẹ anh đâỷ
Phong cười cười:
- Không saỏvui qúa đi thôỉ.thật không ngờ !
Nàng dãy nảy:
- Anh còn vui cười được nữa hả? cười trong lúc em đang lo lắng như thế này, hả? hả??
Phong nghiêm chỉnh:
- Vậy anh nói để em yên tâm ngay lúc này. Anh chắc chắn là cha mẹ anh không bao giờ phản đối chuyện em tuổi Dần hay cao số gì cả. Trái lại biết em tuổi Dần, mẹ anh còn ?vui nữa đó, cho nên anh mới vui theo.
Hiền Lương lắc đầu:
- Em không tin, em không tin! anh chỉ bịa ra để trấn an em.
- Bây giờ anh kể thêm một chuyện về tuổi Dần nữa cho em nghe nhé, chuyện này kết cục khác hơn chuyện trước. Nhân vật chính là mẹ anh, người cũng?tuổi Dần..
Hiền Lương giật mình, ngạc nhiên hỏi lại:
- Mẹ anh cũng tuổi Dần ?
- Ðúng thế, chẳng những tuổi Dần lại sinh vào giờ Dần, hai gò má còn cao hơn em nữa chứ, ?hắc ám? thế thử hỏi ai mà không ngán? trừ người đang yêu ?mù quáng? là cha anh quyết chí xông vào. Ngày xưa bên nội anh đã chống đối cuộc hôn nhân của cha mẹ anh đến cùng đến nỗi hai người phải bỏ xóm làng ra đi để được chung sống bên nhau cho đến khi sinh 2 đứa con cha mẹ anh mới dám dắt nhau về bên nội trình diện và tạ tội. Ðấy, cha mẹ anh vẫn sống bên nhau hạnh phúc đề huề, con đàn cháu đống tới ngày nay, cha anh có gặp nạn hay chết yểu vì cô dâu tuổi Dần đâu?
Hiền Lương vui mừng, tươi ngay nét mặt:
- Thật thế hả anh, vậy là đúng như mẹ em nói tuổi nào cũng có số mệnh của nó, nhiều khi chỉ ngẫu nhiên mà hoạn nạn rơi vào tuổi Dần rồi gây ra ấn tượng và mang tiếng thêm cho người mang tuổi Dần mà thôi. Cha mẹ em tuổi rồng bay phượng múa mà cha em lại chết yểu bỏ mẹ em bơ vơ trên đường đời từ tuổi còn thanh xuân cho đến giờ.
Phong vỗ về người yêu:
- Chẳng cần nhìn đâu xa, cứ nhìn cha mẹ anh và cha mẹ em thì chúng ta cũng thấy đâu là số mệnh rồi.
Chàng thân mật ngồi xuống chiếc ghế xích đu cạnh nàng:
- Bây giờ thì em đã có thể bình tâm mà trả lời câu hỏi lúc nãy của anh chưa?
Phong cầm bàn tay Hiền Lương lên và âu yếm tiếp:
- Cho phép anh nay mai đeo nhẫn cưới vào ngón tay xinh này không hở cô dâu tương lai tuổi Dần và hai gò má cao đáng yêu của anh?
Hiền Lương nũng nịu:
- Không, vì ?
- Vì sao nữa? Phong nóng ruột ngắt lời.
- Vì anh cầm lộn bàn tay phải của em rồi, người ta chỉ đeo nhẫn cưới cho hôn thê vào bàn tay trái thôi anh.
Phong cầm bàn tay còn lại của người yêu, nồng nàn tiếp:
- Anh xin cả hai bàn tay em, một tay để anh đeo nhẫn, còn một tay để em đeo nhẫn cho anh nhé.
Truyen Dai
**************
Huấn Luyện Phi Hành
Phần thứ Nhất
Chương 4
Huấn Nhục Tại TTHL/KQ Nha-Trang
Nha Trang, miền cát trắng ngàỷ tháng? năm 19?
Hồng Hạnh,
cô em gái thân thương,
Dỏ từ thuở còn mài đủng quần trên ghế của các trường Tiểu-học, Trung-học và Ðại-học, anh quá ngưỡng mộ những anh chàng phi công, anh yêu ngành bay bổng, và đã đêm từng đêm, ngày từng ngày ôm mộng: mai sau anh sẽ ngao du đây đó với mây trời lồng lộng, giang hồ bồng bềnh phiêu lãng bay qua bốn bể. Vì:
Ðời phi công ngang dọc vượt ngàn non.
Từ đại dương bay qua vạn lâm sơn.
Giữa sáng nắng khuya chiều bồng bềnh tới.
Tự hào đó muôn đời tôi ước muốn?
Mộng vàng ươm sương gió cuốn non sông.
Thiều quang cánh chim bằng rong nghìn núi.
Ðêm chập chờn thao thức vùi trăng vỗ.
Ngày tha phương cánh bạc tô vuông đời.
Bầu trời tròn hoài mong đợi trong tôi.
Từ thinh không anh nhìn đời bát ngát.
Tự do ấy toả rung ngàn nốt nhạc.
Mộng hải hồ hằng khao khát thế nhân.
Dưới chân mây ta nhìn lên vạt nắng
Vờn trong gió mơ năm tháng song hành.
Bỗng hoá thân anh đổi đời xoay chuyển.
Phiêu lãng nơi đâu tầm tay tang biến?
Anh: ngấn nước thầm lặng miền ven biên
Bên dãi ngân hà. Tôi nào giữ được.
Dẫu lãng du tình lả lướt lưng trời.
Biết bao giờ tôi ôm trọn giòng trôi!? (*)
Mỗi buổi bình minh khi mặt trời rạng rỡ đỏ thắm pha màu hồng tươi, quyện lẫn từng vạt mây ngà bồng bềnh trôi trong không phận Nha Trang, mây hồng lững lờ soi mình lung linh trên mặt biển lặn sóng. Mặt trời ươm nắng từ từ ngoi lên khỏi mặt biển xanh ngắt, bơi bơi vào không gian vô tận. Chim biển rộn ràng chao lượn, rối rít hót những âm thanh líu lo, nghe vui vẻ lạ thường. Và lúc chiều về, phía núi xa xa có những mãng mây ửng hồng, hoà với mây tím chắn che trên đỉnh, mặt trời vàng óng còn lấp ló dưới chân đồi, khiến anh tưởng chừng như có nàng sơn nữ sau khi ngâm mình trong suối mát, trên đường về nhà sàn, sơn nữ còn quay lại mỉm cười vu vơ. Các cô nàng ngắm nhìn bọn anh với vẽ mặt bẽn lẽn, e ấp, lưu luyến, chưa muốn xa cách; dù chỉ vài tia nắng nhạt mà còn hơi nóng, có khác gì ánh mắt nồng nàn của sơn nữ thay lời chào tạm biệt, trong những phút cuối mình còn thấy nhau... Em ơi! Em khoan vội nói:
- [?Anh đã dong vô lính, không lo chuyên tâm học hành, đỗ đạt ra làm ?quan tàu baỷ như má mình ưa nói; anh ở đó mà lãng mạn, phiêu bồng nói chuyện tào lao, mơ mộng tới mấy nàng sơn nữ. Không có đâu, đừng mơ hão nhớ huyền. Mệt?].
Ha ha ha! Chiều nay anh trai có ít giờ rãnh rỗi, nên anh viết thư gửi đến em, hầu đáp lại tấm chân tình, mà bấy lâu nay ba má, anh, chị, em? thân thiết đã riêng dành cho anh. Cũng như anh đền đáp cho gia đình, ba má mình phần nào; về sự họ đã thắc mắc, băn khoăn, phân vân từ cuộc sống mới của ?đứa con cưng? của ba má nơi quân trường. (Em không ganh tị, phụng phịu, xù mặt ra... khi anh nói vậy, à nhen). Hy vọng thư nầy đến kịp lúc, từ phương xa mọi người trong gia đình mình có thể dõi theo dấu chân anh nơi quân trường Không-Quân Nha Trang nầy. Em nhé!
Ngày đầu tiên, khi vừa đến quân trường Không-quân Nha Trang, tụi anh được các niên trưởng dàn chào ?tưng bừng, mệt bá thở?, làm bạn Quân sợ đến gần "té đái", ai ai mà chả có đôi lúc yếu lòng xìu xìu ểng ểng ha em. Khuya đó, nó lân la tới gần bọn anh, rù rì to nhỏ rủ rê anh, Tâm và Vinh:
- Tụi mình đào ngũ về Sài Gòn đi.
- Mầy nói cái gì?
- Thì ?đào tẩủ? Có gì, sau đó chúng ta trốn lên Ðà Lạt. He.
- Ha ha! Thôi mầy. Ðã vào đến bây, sao yếu vậy? Chết nhát hả? Ngủ đi mầy.
Thế là Quân tiu nghĩu, uể oải lững thững đi về phòng ngủ. Vậy mà bây giờ Quân vẫn hân hoan theo kịp bạn bè, Quân vui vẻ và kiên nhẫn chạy đua bén gót theo bạn, nó không hề bỏ cuộc, chứ có kém chi ai. Vậy mới biết:
?Làm trai cho đáng nên trai
Xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài tan?.
Thời khóa biểu học trong quân trường khá sít sao, chặt chẽ. Buổi sáng sớm trường mở loa phát nhạc quân hành. Tất cả anh em liền ngồi bật dậy như cái lò xo, mắt nhắm mắt mở, họ vội thay bộ đồ thể thao, thường là áo thun T Shirt, quần dài treillis, có quần tắm lót bên trong. Anh cùng các bạn lo chạy ra sắp hàng, điểm danh như thường lệ. Khoảng năm giờ sáng, có một ông Thượng-sĩ huấn luyện viên thể dục hướng dẫn tụi anh chạy bộ thẳng ra bờ biển, rồi tiếp tục rẽ về bên phải, chạy đến Cầu Ðá, xa hơn quân trường sáu kí lô mét. Anh nhớ lại thật vui, mà tức cười nữa em à; người ta nói: "gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu". Mà bọn anh là trai đôi mươi đang thời sung mãn, phơi phớỉ thì dù là gái mười bảy, gái mười tám, nếu có muốn đi ?đấu vật? còn phải chịu nằm dưới... là thường; Vậy nếủ anh chạy năm bảy kilô mét bi giờ, nào có ra gì! Chạy có đổ mồ hôi thật, nhưng vẫn đều bước nhịp. Không một chàng nào rơi rớt? "tụt hậu" cả nghe em!
Miệng vang vang bài hát "Không Quân Hành Khúc". Lúc tụi anh chạy ngang qua căn cứ Hải Quân, thì câu hát: "Ta là đàn chim bay trên cao xanh. Khi nhìn qua khói những kinh thành xa. Ðôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh. Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng. Ðây đó hồn nước ơi! Không quân Việt Nam vút trên ngàn mây gió Ụ.ủ ủ Ôi phi công danh tiếng muôn đời. Nhìn xa phi trường Việt Nam. Không quân ra đi cánh bay rợp trờị.." được cả bọn anh không ai bảo ai, mà cùng nhau quay mặt vào quân-trường bạn, đồng thanh cất cao giọng, để "giựt nổi", để ?làm le, làm dóc, chơi trộỉ chút xíu. Ấy là bọn anh cố ý chọc phá, vui chơi, bay bướm với mấy chàng áo trắng ?Hoa Biển? lả lướt mà lỵ!
Rồi, cả đoàn sinh viên sĩ-quan lại chạy trở về, tới khúc quanh trước khi vào cổng quân trường, lúc đó thì mọi người được huấn luyện viên cho tự do thoải mái. Ai muốn hít thở không khí trong lành, ai đi lại trên bãi cát trắng, hoặc ai muốn tắm, muốn bơi, đều có quyền tự ý đùa giỡn, vẫy vùng thoải mái trên sóng biển. Mỗi lần chạy về đến cổng căn cứ Không-quân, anh nhìn lên tấm bảng ghi hàng chữ đậm: "Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu". Trong lòng ai nấy cũng cảm thấy có phần yên tâm. Sự kiên nhẫn và chịu đựng ngày càng tăng thêm. Không quản nhọc nhằn gian khổ, nên các anh em cố gắng trì chí học hành. Hy vọng sau nầy sẽ được gia nhập vào một trong những Không-Ðoàn sau:
- Không Ðoàn 41 - Vùng 1.
- Không Ðoàn 62 - Vùng 2.
- Không Ðoàn 23 - Vùng 3
- Không Ðoàn 33 - Chiến Thuật tại phi trường Tân Sơn Nhứt.
- Không Ðoàn 74 - Vùng 4? vân vân?
Lúc các anh về đến sân trường, khóa sinh tập họp lại điểm danh, rồi tan hàng. Mọi người chạy về phòng, ai nấy lo sắp xếp chăn màn, gối nệm cho vuông thành sắc cạnh ngay ngắn. Dưới chân giường có "chưng" đôi giày bóng lộn, con ruồi đậu lên còn trợt té, Hồng Hạnh à. Trong tủ có cái bi đông nước, và ca nhôm sáng chói. Mọi thứ từ quần áo đến đồ dùng: phải ngăn nắp sạch sẽ. Trên đầu giường khóa sinh luôn có tờ giấy trắng in sẵn tên, họ, để sinh-viên đàn anh đi kiểm soát phòng. Họ sẽ rút ra ghi cho sinh viên Không-quân điểm: thưởng hay phạt! Nghiêm minh và công bằng lắm nghe em!
Trước mỗi tuần vào ngày Thứ Bảy. Cán bộ huấn luyện sinh viên sĩ quan sẽ cho biết là: Tuần sau khoá sinh sẽ học môn gì. Họ cẩn thận niêm yết bảng "Thời Khoá Biểu" trong tuần tại phòng của khoá sinh. Lần đầu tiên họ cho khóa sinh test để sắp lớp. Dĩ nhiên anh được vào học lớp cao nhất. Ðó là lớp học từ 2.100 đến 2.500. Sáng nào bọn anh cũng học Anh-văn. Sau mỗi ngày học, anh phải vào phòng Lab thực tập làm bài, luyện giọng. Những anh kém thì vào học lớp vỡ lòng từ lớp 1.100 đến lớp 1.500. Trình độ khá hơn thì 1.600 đến 2.000. Sau khi học hết các lớp, anh thi đạt điểm cao nhất trong khoá đó! Hãnh diện nghe! Nể anh chưa?
Các anh đi học thường mặc quần áo kaki vàng, giày soulier bas. Còn lúc học môn quân sự thì mặc treillis, giày bốt cao cổ, mũ lưỡi trai. Các môn học đủ hết, từ: căn bản về đủ các môn quân sự, kể cả lết, bò, trườn, chống hai tay lên vĩ sắt nóng. Học chiến thuật tác chiến. Cơ-bản Thao Diễn. Thể thao quân sự. Vũ khí chiến lược. Nghệ thuật chỉ huy. Vân vân? Tóm lại là chương trình học có rất nhiều môn. "Thực đơn" của một tân khóa sinh cần biết: Các anh phải nắm vững mọi vấn đề cần thiết cho một sĩ quan chỉ huy. Mỗi tháng, các anh tân binh có tiền lương, đồng tiền tuy hạn chế, vừa phải nhưng không đến nỗi nào eo hẹp.
Mãi kể với em nghe tí nét sinh động của đời nhà binh, còn chút nữa anh quên nói tiếp theo, là sau khi tập thể dục sáng xong về đến phòng, thì anh đi đánh răng rửa mặt, làm vệ sinh, thay quần áo thích hợp, đi ăn sáng và học trên lớp, hoặc ra bãi tập. Ðến trưa tụi anh cũng phải xếp hàng đàng hoàng đi lên Phạn Xá. Các tân khóa sinh chưa được đeo Alpha trên áo, phải đứng nghiêm chào, tự xướng danh:
- Khóa sinh tên: ? và số quân?
Anh nhớ dường như số quân bên Không-quân bắt đầu từ con số 6. Rồi bạn bè anh em mới được bỏ mũ ra, tuần tự đi vào nhà ăn. Anh đi đến cái bàn nào gần nhất. Rất nhiều dãy bàn dài, có những hàng ghế đóng dính liền nhau. Mỗi hàng ghế có thể cho mười sáu khoá sinh ngồi. Sinh-viên chia nhau ra thành từng "ca rê". Bốn người ngồi ăn cơm chung trong một mâm. Nhưng khoan đã... có bài bản điệu nghệ cả nghe em! Anh đứng nghiêm trước ghế ngồi, chờ tất cả mọi khoá sinh vào xong đâu đó rồi; khi nghe lệnh của cán bộ:
- Tất cả khoá sinh: Ngồi!
Cả đám khóa sinh Không-quân hô to:
- Xuống.
Bấy giờ mới được ăn đó nhe em! Trời ơi! Hôm nào hổng hên, anh ngồi ăn chung với vài ông bạn ?vai u thịt bắp, mồ hôi dầủ. Thì kể như hôm đó coi như anh "trúng mối độc đắc", nghĩa là mình thua là cái chắc rồi. Vì, họ ăn uống dễ dãi, ăn rất nhanh và ăn quá khỏe. Bọn anh e dè chỉ chỏ rù rì phụ nhĩ với nhau:
- "Tay đó" là hung thần phạn xá đó nghe mầy!
Gắp thật lẹ, lùa thật mau
Ăn không kịp nghỉ, nuốt không cần chờ
Thằng nào lẹ, thằng đó nhờ
Thằng nào chậm chạp đói mờ người ra (Phan Ni Tấn N.D)
Thoáng một cái, là trên mâm thức ăn hết sạch. Bát canh ruồi cũng sạch từ khuya. Vài ông "chăm chỉ" còn bẻ trái chuối ra, chan cả nước trà vô cơm, mà lua lia chia vô miệng ăn tiếp. Miễn sao họ ăn nhanh cốt no bụng là xong. Em ạ! Mấy lần đó anh đói meo, chỉ có nước là chờ giờ nghỉ giải lao mười lăm phút, anh cắm đầu cắm cổ chạy lên Câu Lạc Bộ, để mua cái gì ăn thêm, cho đỡ đói. Nếu Câu Lạc Bộ không có thức ăn theo ý thích, anh nói với ông bà chủ mua dùm. Thì hôm sau họ sẽ đem hàng về, cho anh "bồi dưỡng" thêm, chiều chiều khi về phòng, anh có thể "chè chén" tí. Sống ở đây, như một "gia đình khoá sinh" ôn nhu trật tự nho nhỏ, cũng mới lạ vui vẻ và thích thật.
Anh không quên nói nhè nhẹ về ?mấy món ăn chơỉ mà trong thời gian huấn nhục, bọn anh "được" các niên trưởng chiếu cố: Nhảy xổm, hít đất vài chục cái là xoàng, như cơm bữa! Tối bị phạt chạy vòng Cộng Hoà, cũng chỉ là thường tình, giúp mình ngủ thêm ngon, đâu có ngán! Nhưng anh cũng? ?hơi hãi" nếu bị phạt dã chiến, em ơi! Nhờ anh có chích TAB, nên nắng gió sương khuya: coi như nó là bạn bè, giúp biến làn da tụi anh trở nên rám nắng, ?phong trần, hiên ngang, khí phách nam nhỉ, vóc dáng rắn rỏi hẳn ra. Lúc đó các em coi các anh cũng ?đã con mắt? mà thôi! Phải không nà?
Chàng nào "vô phước" bị dã chiến, là te tua, cả phòng cũng mệt lây, vì họ lo phụ giúp anh ấy thay quần áo, khi thì quần treillis áo vàng, vác sac marin lên trình diện ông "hành văn... Niên Trưởng" trong vòng một phút chẳng hạn. Rồi bị phạt lấy muỗng cà phê múc nước đổ đầy bi đông trong vòng năm phút. Nào lấy tăm xỉa răng đo chiều ngang barrac được bao nhiêu. Nào khoả sân cát cho bằng phẳng giữa trưa nắng chang chang. Xen vào đó là những cú nhảy xổm, hai tay nắm hai lỗ tai tréo nhau, hay kiểu chân co chân duỗi như cái càỷ vân vân?
Mình phải ráng thực hành cho đúng theo mẫu sáng tạo của "Quan" sinh-viên sĩ-quan Niên Trưởng. Bởi thế, tụi nầy hổng ngán mấy ?Ông? sĩ-quan Trung-úy, Ðại-uý... bằng "hãi" mấy ?Ngàỉ Niên Trưởng mang họ "Hành"-văn đâu! Ðó em hiểu thế nào là Huấn Nhục chưa? Nhiều cái tức cành hông, mà không cần có lý do, để lý giải hay lập luận gì hết! Ba cái tự ái vặt của đời sống dân sự, sự cải lý của chàng sinh viên, học sinh, thì ?Các Ngàỉ sẽ trị cho "mấy tển" im re, xép ve! Chứ ở đó mà ngông nghênh, tự đắc... Họ không được ngóc đầu dậy ở trong quân trường đâu, em à! Ðây là những "chén mồ hôi" nhỏ tong tong từng giọt, từng giọt, từng giọt... theo những bước chạy tốc hành trên bãi cát nóng trong quân trường Không-Quân-Mẹ.
Sau ba tháng huấn nhục trầy da tróc vảy, họ huấn luyện các anh sinh viên sĩ quan Không-quân chịu đựng gian khổ, nhục nhằn, cuộc sống của các anh hầu như cái máy. (Hay sắp trở thành cái máy, mà chả biết). Các anh gò mình trong trật tự, có khuôn khổ, và quen dần với kỷ luật sắt.
* * *
Ngàỷ Tháng... dần qua nhanh, và niềm vui mừng vinh quang lại đến! Ðó là ngày anh và bạn hữu chính thức trở thành sinh-viên sĩ-quan thực thụ. Khoá sinh được làm lễ gắn Alpha tổ chức tại sân trường Không-Quân Nha Trang. Buổi ra mắt sinh-viên sĩ-quan vô cùng nghiêm trang, chu đáo, và trọng thể, với niềm xúc động đặc biệt, tự hào hãnh diện không thể quên. Có Chỉ-huy-trưởng Căn-cứ. Chỉ-huy-trưởng Liên-đoàn sinh-viên sĩ-quan. Sinh-viên sĩ-quan. Cán-bộ. Thân nhân. Bạn hữu ai có điều kiện, hay bạn hữu ở gần gần, đều có thể đến tham dự đông đủ. Từ sáng sớm, các khoá sinh ra sắp hàng chỉnh tề ở ngoài sân. Có mấy anh em len lén? vụng trộm thủ một chiếc dép nhựa, hay miếng cạc tông nhỏ xíu, để kê dưới đầu gối. Chứ quỳ hàng giờ như thế, có mà rục đầu gối ra. Nhưng anh em ấy phải hết sức thận trọng, kín đáo, coi chừng cán bộ. Vì nếu họ thấy, thì chết đa. Khoá sinh quỳ gối đọc lời tuyên thệ, trước khi được vinh dự gắn Alpha lên cầu vai.
Ngày đầu tiên được phép xuất trại, anh ra phố đi rong chơi tự do thoải mái, đi lung tung nhìn ngắm Nha Thành đến 17:00. Ngoại trừ những anh em bạn nào bị ghi thẻ phạt, thì không được đi phép xuất trại. Cán bộ niên-trưởng kiểm soát khá kỹ. Họ vui vẻ dặn dò sinh viên sĩ-quan đủ thứ. Trước khi xuất trại, sinh-viên phải ghi nhớ và thuộc lòng nên giữ kỷ luật, như sau:
- Ra phố, phải có quy chế "tác phong" của sinh-viên sĩ-quan đàng hoàng.
- Quần áo chỉnh tề. Cấm không được ăn mặc cẩu thả.
- Không "chè chén" say sưa, làm mất thể diện phong cách con nhà tướng.
- Không cười đùa giễu cợt, giỡn hớt "lố lăng" lấc cấc, trơ trẽn lom lom dòm ngó chỉ chỏ lung tung ngoài phố.
- Cấm đi xích lô. Cấm đi xe đạp. Chỉ được phép đi xe vespa, xe hơi. Taxi.
- Mỗi khi gặp tuần tra của căn cứ, anh phải đứng lại nghiêm chào. Sau đó anh mới ung dung thong dong đi tiếp.
- Nếu ai vi phạm bất cứ một trong những nội quy nào. Sẽ lập tức bị cán-bộ ngồi trên xe tuần tiểu nhảy xuống; thu hồi tấm giấy phạt (để trong túi áo bên phải của sinh-viên). Cán-bộ sẽ mang về căn cứ, còn khóa sinh ấy lo âu chờ xử phạt.
Cũng nhờ có kỷ luật quân trường ban hành gắt gao, cuộc sống có điều độ, chửng chạc và uy nghiêm như vậy, mà anh cùng hầu hết các bạn tăng trọng lượng; khỏe mạnh, cường tráng, vui tươi hơn lúc trước nhiều. Theo quan niệm của anh: hình phạt "dã chiến" nầy, thật ra đó là cách tập luyện cho khoá sinh có nhiều thể lực, có sức khỏe, có tinh thần khắc phục, kiên cường nhẫn nhục chịu đựng gian khố, biết ôn nhu, trầm tĩnh, đắn đo, khôn ngoan, có nhiều kinh nghiệm sống, tháo vát hơn. Hầu ta có thể kiên cường, vượt qua mọi chông gai, gian nan, thử thách trên trường đời đầy binh lửa.
Anh nghĩ lại cũng thấy cái mục đích cao cả và tuyệt diệu của việc nầy: khi quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Người ta đã cố tình huấn luyện cho mình hiểu "kỷ luật là sức mạnh của quân đội" là như thế nào! ?Trên? ra lệnh, là ?Dướỉ phải nghe, và nghiêm chỉnh thi hành răm rắp! Chứ lỡ nếu lúc mình ra trận, không ai có thời gian mà cà kê giải thích tỉ mỉ nầy nọ đâu! Họ chỉ cần thuộc cấp chấp hành thôi! Mà lạ thật em à! Ðó là chặng đường của sinh-viên sĩ-quan ai cũng phải qua cầu. Và, gió cũng thổi cuốn bay đi hết tất cả thù oán, nóng giận, hiềm khích với đàn anh. Sau khi thành công ra trường đời, họ chỉ để lại trong lòng như là những kỷ niệm vui vui, không hề phai nhạt của thuở xưa nơi quân trường mẹ. Thử hỏi mấy ai đành lòng quên! Khi đó thì ta có nhớ gì, ngoài dư hương kỷ niệm:
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khí thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc đường hoàng... (Thế Lữ)
Tạm biệt em.
Anh trai,
Q Thiều
(*) Thơ Tình HOÀI HƯƠNG
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
Chuyện ở đầu sông
Kỳ II (hết)
Chuyện đời người họa sĩ đắng cay như từng hớp rượu mạnh ép mời ôn Thiên ráng uống để bạn vui. Quán chiều bên bến đò im bặt tiếng cười nói của nhóm khách cuối ngày vừa rời quán cho kịp chuyến xe nôn nóng đợi trên cầu. Gió từ sông thổi ruồng qua dãy bàn ghế lỏng chỏng, trơ trọi hai ông già ngồi trăn trải lòng mình qua men cay.
Ôn Thiên lắng nghe tiếng dòng sông trôi về xuôi, xốn xang sóng động trong hồn rêu phong bờ đá. Biết bao mảnh đời đi qua bến đò Tuần bằng bước chân tình cờ của định mệnh. Họ tất tả lên rừng xuống phố, giết chóc khóc cười, sống vội sống mòn, than vãn trần tình, đi biệt. Ôn Thiên vẫn một đời ở lại, âm thầm như bóng, nghe ngóng loanh quanh. Từng âm động, tiếng người, rớt đọng vào tai rồi trầm tích trong ngăn phần trí nhớ của kiếp mù lòa. Xúc động theo câu chuyện tình của bạn, ôn Thiên nghe từ trong quá khứ trỗi dậy từng tràng âm thanh náo động đạn bom và giọng nói ngọt ấm của người thai phụ trẻ tuổi giữa những ngày hè năm sáu tám. Ôn xúc động lần tìm tay bạn. Những ngón tay già nua run rẩy vỗ về nhau, thiệt thà như tiếng khóc hóa mòn dấu đá in hằn trong ký ức vừa chợt nhão ra thành giọt nước mắt hoen bờ mắt sâu khép kín.
Không lâu sau ngày người họa sĩ đi ?thực tế?, cô gái biết mình có thai. Nàng vui mừng báo cho tập thể hay với hi vọng gã xã đội trưởng sẽ buông tha, không còn theo đuổi ve vãn để được yên thân. Không ngờ hắn lại càng tỏ ra cay cú thô bạo hơn. Một lần lợi dụng lúc vắng người, hắn dùng sức mạnh toan làm hỗn, nàng đã may mắn chạy thoát được. Cô gái quyết định trốn khỏi vùng giải phóng tìm cách về lại Huế. Tên xã đội trưởng dẫn du kích đi tìm bắt nàng lại. Nhằm lúc một đơn vị lính quốc gia đang hành quân lục soát trong vùng, vài du kích bị tử thương trong số đó có cả tên xã đội. Cô gái bị tình nghi là cán bộ giao liên, nàng được đưa về hậu trạm của đơn vị hành quân đóng ở bến đò Tuần để điều tra. Một sĩ quan người miền Nam, biết cô gái lúc ở Huế, đã đứng ra cứu vớt, bảo lãnh cho nàng được tự do. Ôn Thiên uống cạn ly rượu. Ôn ngồi quay mặt về phía dòng sông, bóng chiều trầm lặng phủ lên lũng mắt sâu kín niềm đau.
- Nghe nói người sĩ quan, chẳng sá chi chuyện lỡ lầm, đã cưới cô gái rồi đưa vô sống trong Nam. Dù răng thì cụ mi cũng có được đứa con sống ở mô đó trên cõi đời ni. Còn tui phải chôn con mình lúc chỉ mới là cái bào thai năm sáu tháng.
Người lão bộc mù nghe tiếng thở dài của bạn lặng chìm vào tiếng nấc nghẹn, ấp úng rã rời men rượu. Ôn Thiên nghĩ tới nơi sinh trưởng, làng Hồ. Thuở thằng Thiên mắt sáng, bàn chân tuổi chín mười rón rén bước theo tiếng chim rúc trên con đường làng lổ đổ bóng nắng trưa thơm mùi mít chín. Phần số mù lòa đẩy đưa ôn đi ngược dòng sông Hương đến bến đò Tuần rồi buộc chặt đời mình ở đó. Năm mươi năm qua ôn Thiên sống âm thầm kiếp đời nô bộc trong quán trọ nghèo nàn bên bến sông. Hòa bình. Chiến tranh. Quốc gia. Cọng Sản. Sống chết. Ðói nghèo. Cười khóc... Tất cả là tiếng đời quen lạ vây quanh, là âm động cuồng quay vùng thính giác bơ phờ nghe ngóng. Trong gian phòng nhỏ cuối quán trọ, chiếc phản gỗ mít lâu đời trơn bóng là nơi ôn Thiên hành nghề tẩm quất kiếm sống qua ngày. Tấm gỗ dày cả gang tay có bao cát chắn quanh cũng là trần che chắn cái hầm trú ẩn đã bao lần giúp ôn sống còn qua hơn hai mươi năm súng đạn vô tình. Trên tấm phản đó biết bao thân xác rã rời đã trong một giây lát nằm lại thơ thới mà quên đi
chiến trường mỏi mệt. Lính quốc gia, lính Sài Gòn, du kích, bộ đội, nam, nữ... chỉ là những sợi gân cốt mỏi rời được ôn xoa bóp chăm lo. Ở đó, có khi những mảnh đời đã được trải ra, kể lể, than thân... trong lúc ôn Thiên chỉ im lìm lắng nghe và cần mẫn làm tròn công việc với đôi tay nô bộc mù lòa. Cho đến một đêm... Tiếng rên dồn dập lạ tai của o du kích và những ngón tay bấu chặt lên người khiến ôn Thiên dừng tay nghe ngóng hỏi han. Chỉ có tiếng trở người và chút âm thanh cấp bách vừa kịp ghì ríu trong cổ họng. Lúc tay vừa chạm vào đôi bầu ngực căng tròn của cô gái thì trong người ôn cũng chợt rùng rùng cảm giác trào ngợp khó tả làm tim đập nhịp liên hồi. Hai con thú hoang vồ siết nhau trên vùng châu thổ đam mê sóng cuộn bãi bờ. Từ đó, căn hầm tăm tối là nơi họ chìm ngập vào nhau cho thỏa thuê cảm giác mở toang trên từng phân li da thịt. Ngày o du kích cho biết có thai, ôn Thiên vui mừng nhưng cô gái chẳng nói năng chi. Vài tháng sau, cô gái cho ôn biết tập thể đã đưa nàng ra kiểm thảo, buộc phải phá thai và đưa đi làm công tác giao liên ở vùng khác. Ngày chia tay, cô gái nói cho ôn biết nơi nàng quăng giấu cái bào thai rồi lặng lẽ bỏ đi. Ôn Thiên đã khóc suốt trên đường về làng Hồ nơi ôn chôn cất đứa con vừa tượng hình hài. Và biết bao năm sau đó mỗi khi nghĩ tới cảnh sống cô đơn đời mình. Cách đây không lâu, trong ngày khánh thành chiếc cầu mới bắt qua sông gần bến Tuần, ôn đang đứng dưới tàng cây ngô đồng thì nghe có tiếng phụ nữ hỏi chào.
- Ôn Thiên đó hỉ !?
Giọng người đọng vào tai thì cho dù bao nhiêu năm ôn cũng chẳng thể quên. Huống chi... Ôn chợt rúng người, nghe tiếng mình bật hỏi.
- Rứa O đó hỉ !? Tui đây...
Tiếng trả lời nhỏ lại bước theo người. Ôn Thiên đang lóng ngóng thì có người đẩy ôn muốn té.
- Tránh ra cho đồng chí chủ tịch huyện đi cắt băng cầu mới.
Lời phát biểu của người đàn bà trong buổi lễ qua hệ thống khuếch thanh theo gió lởn vởn lúc gần lúc xa vọng xuống bến đò. Giọng nói chen vô đầu quẩy động lớp âm thanh đã từ lâu lắm ôn không hề muốn nghĩ tới. Bàn tay người tẩm quất mù đã khơi mở cơn thèm muốn ăm ắp lâu đời của o du kích khỏe mạnh mà xấu xí chẳng ai để ý tới. Ôn nghĩ tới những vết rổ sần kín trên mặt người đàn bà rồi chợt vuốt mặt mình lúc lần bước về phía bờ sông. 5. Tiếng chuyện vãn của nhóm đàn bà ở dưới vạn đò đi chợ về làm ôn Thiên chợt tỉnh giấc mê ngày. Ôn Thiên ni thiệt, ra tuốt ngoài sông mà ngủ nướng. Ôn nằm trên nắng dưới nước như rứa coi chừng bị đau thương hàn đó nghe... Ôn Thiên răng mà giống như ngày càng lẩn từ cái hồi ôn họa sĩ Việt kiều chết tới chừ... Tội nghiệp, đi Ðông đi Tây cho bưa rồi về cái xó ni mà chết một mình... Ôn Thiên ầm ừ vài tiếng khản nghẹt trong cổ họng chừng như để trả lời câu quở trách của mấy mụ o dưới đò thiếu chuyện nói. Ðầu óc ôn bềnh bồng với ý nghĩ hình như mình đã nằm yên ở vị thế này từ lâu lắm. Cảm giác nóng rát trên mặt trên ngực vì ánh mặt trời trưa gay gắt khiến ôn muốn chuồi người hẳn vào lòng nước mát. Ôn biếng lười nằm yên lắng nghe tiếng mái chèo khua xuôi ngược trên sông, lắng nghe từng con sóng nhỏ thì thầm vỗ về quanh thân thể mình. Chỉ có dòng sông mới thấu hiểu được nỗi lòng người sống đời khốn khó, nổi trôi theo định mệnh u hoài của nó. Ôn mường tượng tới đôi bờ sông mãi ngó về nhau, cách biệt một dòng trôi, thất vọng
lỡ làng. Sự cách biệt của đôi bờ, thời gian, kiếp người, cũng đau lòng như đắng cay không nói hết. Ông Trời khiến ôn mù lòa quẩn quanh một chỗ lại cắt cớ bắt phải làm chứng nhân câm nín cho biết bao chuyện thương tiếc lỡ làng. Phải chi hai mẹ con người đàn bà ghé bến Tuần sớm hơn đôi ba ngày hay người họa sĩ sống thêm mươi hôm nữa. Phải chi... Ôn Thiên nghĩ tới hình ảnh cha con trùng phùng sẽ không bao giờ có trong sự thực mà cảm thấy lòng dạ mình đau như xé. Ôn đã giữ yên lặng để được nghe tiếng cười tràn ngập niềm vui của người mẹ và đứa con gái nhỏ nô đùa trên bến sông. Ðể rồi, buổi sáng hôm sau, khi họ đi rồi, ôn lại băn khoăn tự trách về sự im lặng của mình. Hai mẹ con người đàn bà Việt kiều đến thăm bến Tuần chỉ mấy ngày sau khi người họa sĩ qua đời. Trên quãng đường ngắn từ quán nước về nhà trọ, tiếng trò chuyện bằng ngôn ngữ ngoại quốc thánh thót như chim của hai mẹ con chen lẫn trong tiếng cười khúc khích của cô gái nhỏ khiến ôn Thiên trong giây phút quên cả muộn phiền. Người mẹ nhanh nhân sánh bước với ôn Thiên.
- Xin lỗi bác Hai. Cháu nó nói tiếng Việt không rành lắm. Cháu vừa hỏi tôi, mắt bác Hai như vậy mà sao bác đi nhanh hay quá?
- Chỉ một khúc đường ngắn, đi tới đi lui mỗi ngày cả hơn năm mươi năm ni nên chi quen rồi O ơi.
Ôn Thiên đưa hai mẹ con vào căn phòng khang trang duy nhất của quán trọ, nơi người họa sĩ đã sống mấy tháng cuối cùng của cuộc đời. Người đàn bà vui vẻ giúp ôn Thiên trải xếp lại chăn chiếu trong phòng. Lắng nghe giọng nói miền Nam hồn nhiên vui tai của người khách trọ làm ôn Thiên cũng trở nên bặt thiệp góp chuyện. Tiếng người đàn bà nói như reo từ phía cuối phòng nơi treo tranh của người họa sĩ quá cố.
- Sao nhà trọ có nhiều tranh của họa sĩ Lê vậy bác Hai? Ông ta ở Úc mà nổi tiếng qua tận bên Mỹ đó bác. Ủa, có một tấm hình như đang vẽ dở dang ...
Nghe nhắc tới bạn, ôn Thiên chợt buồn đến lạc giọng.
- Ôn Lê về thăm quê ở Huế, rồi lên Tuần mấy tháng, uống rượu vẽ tranh. Ôn họa sĩ chết đột ngột vì bệnh tim, chẳng kịp vẽ cho xong bức tranh ôn nuôi dưỡng trong đầu suốt một đời lưu lạc.
Tiếng người đàn bà chùng xuống ngậm ngùi.
- Tội nghiệp quá! Thuở sinh thời của cha mẹ, cháu nhớ cha mẹ không đề cập gì nhiều đến họa sĩ Lê, nhưng có lẽ họ có quen biết nhau. Một lúc nào đó thời son trẻ. Nhà cha cháu để lại bên Mỹ vẫn còn treo bức tranh thiếu nữ bên sông của họa sĩ Lê ký tặng mẹ. Bức họa cũ , tương tự như bức đang vẽ dở dang, nhưng màu sắc thì tươi thắm chứ không xám chìm ảm đạm thế này.
Ôn Thiên đứng lặng người, đôi hỏm mắt phủ mây đục nhướng lên cố nhìn ngoái vào vùng trí nhớ in hằn từng phiến tích âm động khóc cười của những nỗi đời sa chân bước qua bến Tuần một ngày một đêm nào đó.
- Mẹ con O về bến Tuần thăm ai rứa?
- Mẹ cháu mất đã hai mươi năm, còn ông Ngoại của bé Thu qua đời gần ba năm rồi. Trước ngày mất, ông trăn trối ân hận đã không về thăm lại bến Tuần một lần. Ông nói bến Tuần là nơi cha mẹ gặp nhau rồi thành vợ chồng ở đó. Thời đó ba cháu là sĩ quan quân đội miền Nam.
- Tui đui mù loanh quanh ở đây suốt đời, có khi đã gặp cha mẹ O rồi mà không nhớ. Rứa chớ mẹ O tên chi?
- Ba thế hệ, ba mùa. Mẹ là mùa Ðông, gởi gắm mùa Xuân cho con gái. Tới phiên cháu, Hạ nghe con trai quá, hơn nữa vùng cháu định cư ở Mỹ mùa Thu đẹp lắm, lá rừng phong đỏ ối in hình xuống mặt hồ gương lắng đọng mây trời.
- Có giống màu đỏ của bông phượng không O? Tui chỉ còn sót lại màu đỏ của phượng trong trí nhớ. Và màu xanh của lá...
Ôn Thiên thẩn thờ bước ra cửa. Gió từ sông thổi ruồng qua hiên trống mát mùi hơi nước. Hình như có cơn mưa từ nguồn về bay tạt qua đây mang theo tiếng cười của đôi tình nhân lồng lộng suốt dọc một chiều sông dài đăng đẳng mấy mươi năm. Hình như có giọt lệ lắng đọng trong bóng tối của đôi mắt khép, sâu hút kỷ niệm. Ôn Thiên nuốt tiếng thở dài, quay vô nhà lần tìm chiếc dù, đưa cho cô gái nhỏ.
- Cháu đói bụng chưa ? Che dù cho mạ kẻo mưa ướt. Ra quán, vừa ăn vừa coi mưa, nói chuyện nhà.
Ðứa bé che tay, thầm thì vào tai mẹ. Người đàn bà tát yêu vào má con, méc với ôn Thiên.
- Bé Thu vừa nói với cháu là ông Hai nên nói là nghe mưa thì mới đúng. Con bé này lí lắc thiệt mà...!
Bàn tay chai sạn ôn Thiên ngại ngần run rẩy xoa lên mái tóc mịn màng của đứa bé. Ôn nhớ tới đứa con chưa kịp ra đời đã phải đành cuộc vĩnh ly.
- Cha mi! Ôn ni coi mưa bằng hai lỗ tai mấy chục năm ni không sót một giọt.
Người đàn bà nhìn mưa giăng sa mù lên mặt sông. Những con đò mong manh như lá co ro nép vào nhau nhỏ nhoi tội nghiệp trên dòng nước bất chợt mênh mông . Bà bỗng nhớ quay quắt người mẹ hẩm hiu vắn số, nhớ tới người cha cam chịu sống đời cô đơn , trải lòng hy sinh cho con gái. Số phận nào đã khiến mẹ cha tất tả qua đây, tình cờ nào đẩy đưa họ gặp nhau nơi bến giang đầu rồi dắt díu nhau theo dòng mệnh hệ nổi trôi ? Trong cơn mưa chiều từ một đầu sông xa lạ, quá khứ đời người trở về bồi hồi gõ nhịp như tiếng mưa đang thánh thót rơi đều trên mái lá. Lướt thướt theo làn mưa bay là hình ảnh từng chặng đời thương khổ của mẹ cha. Tháng ngày con thơ dại trong lòng quê nội, êm đềm như cây trái sông nước miền Nam. Năm tháng long đong cơ cầu mẹ vất vả nuôi con, nuôi chồng trong trại cải tạo. Cái chết oan khiên của mẹ trên đường vượt biển. Cuộc sống trầm lặng của cha trong suốt quãng kiều cư, chấm dứt bằng căn bệnh trầm kha đã hành hạ đớn đau thân xác ông năm cuối đời. Hình ảnh kỷ niệm như khúc phim quay chậm trong sướt mướt mưa chiều, bật thành tiếng nấc kêu thương nghẹn chìm câu chuyện kể. Người đàn bà ôm con vào lòng, cất tiếng cười nhẹ, cố dằn cơn xúc động.
- Trời nước ở đây buồn quá, có lẽ con người cũng đa cảm đa sầu lắm, phải không bác Hai?
- Thì lúc buồn, khi vui. Như tiếng khóc, tiếng cười, tui vẫn nghe vẫn nhớ tới mỗi ngày. Mãi rồi quen đi. Như O thấy tui cứ lần rải đi ra đi vô mỗi sáng mỗi chiều, rứa mà đã sáu mươi năm trên bãi sông quạnh quẽ ni.
Mưa vẫn rơi. Ôn Thiên ngồi lặng hồn nghĩ tới sự lỡ làng của thời gian, nơi chốn. Cũng chiếc ghế kia, chỉ vài ngày trước đây, người họa sĩ đã ngồi thương tiếc đời mình qua men rượu. Thôi thì cái chi rồi cũng có nguồn cơn. Cho dù là tiếng con khóc nhớ cha mẹ hôm ni hay tiếng người thương khóc số phần nhơn duyên mình ba bốn mươi năm trước. Tội nghiệp là mỗi con người phải đành theo ngả rẽ không vừa ý. Ôn Thiên nghĩ tới mười mấy năm luân lạc của người mẹ. Ôn cảm kích mối tình cao thượng của người sĩ quan miền Nam. Ôn không thể làm chi khác hơn là trân quí mối tình phụ tử của người cha đã suốt đời hi sinh cho con. Tình cảm mà suốt đời ôn chỉ là tưởng mơ vô vọng.
- Thôi, mẹ con O đói thì kêu cơm ăn đi nghe. Ðể tui về gói bức hình tự họa của ôn họa sĩ Lê tặng lại O đem về Mỹ treo kế bên bức họa con gái cho vui.
6. Lúc nhóm đàn bà đi chợ chiều ngang qua bến sông phác giác ôn Thiên nằm mê man, nửa người chìm trong nước sông, thì đã quá muộn. Ôn qua đời trên đường chở tới bệnh xá. Người bến Tuần đưa ôn Thiên về làng quê Ngọc Hồ. Trời đang giữa mùa hè. Ðò chèo theo con sông Bạch Yến lừng hương mùi mít chín. Dòng sông lung linh bóng nắng của hàng phượng nở bông đỏ rực. Ôn Thiên đã chết rồi.
Sinh ra trong một gia đình nhỏ ở đồng bằng Nam bộ, nơi chôn nhao cắt rốn của tôi có lẽ trước kia được đàn chim công quí hiếm đến sống trên vùng đất cao bao bọc bởi biển cả sông ngòi, nên có tên là Gò Công.
Chim công
Qua quá trình lịch sử, đây còn là một quê hương bên ngoại của vương triều Nguyễn, thêm có đến hai hoàng hậu đức độ khiêm cung Từ Dũ Nam Phương. Cũng đạt đươc danh thơm « địa linh nhân kiệt » như bao nhiêu vùng lịch sử nổi danh khác nhưng vì không bề thế chỉ to như một hòn đảo nhỏ nên khi thì mang danh hiệu tỉnh khi thì bị xáp nhập giáng cấp xuống thành quận, thị xã, một « tiểu bang » của Mỹ ... tho xưa, nay là Tiền Giang.
Không biết tổ tiên tôi từ đâu đến, chắc chắn là không phải theo bước chân chúa Nguyễn Hoàng nghe lời khuyên của ông Trạng Trình« Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân » xuôi về Ðàng Trong miền Nam khai khẩn đất mới, lại còn xin khẳng định không thể xuất xứ từ những ngưởi Tàu tị nạn chống triều đình Mãn Thanh hay nghèo nàn tha phương cầu thực đến định cư đồng hóa ở đây. Theo gia phả truyền miệng tôi được biết, lai lịch chúng tôi chỉ có trên dưới 80 năm trở lại đây (năm 2000), thuộc họ hàng vòng vòng đâu bên trời Âu bên kia bờ Ðại Tây Dương.
Lạ thật, chúng tôi gốc gác xứ Gò nước mẵn đồng trơ nầy thế mà tên cúng cơm vẫn trăm phần trăm Phú lang sa « Cerise ». Người Việt ta cũng có người thích đặt tên Pháp cho con như Rĩ (Marie), Răng (Jean), Rết (Henriette) nhưng họ vẫn là Trần, Nguyễn, Lể như Trần văn Răng, Lê thị Rỉ? còn tên tộc tôi quả thật là tên Tây chính cống được phiên âm Việt là Sơ Ri hay Xơ Ri.
Ðiều lạ hơn nữa là từ khi quốc gia đã thoát khỏi cơn « đập lột » của ngoại xâm giành quyền độc lập tự do rồi, có thời kỳ ngay cả người Tàu muốn ở lại đây hành nghề sinh sống cũng phải nhập quốc tịch Việt nữa là. Bạn bè tôi chẳng hạn như bà Pomme, dì Tomate, chú Carottẻ cũng đã đổi tên thành Táo ( Bôm), Cà chua, Cà Tây, Củ cải đỏ? trên giấy tờ lý lịch, trong văn chương. Thế còn tôi, không có họ Nguyễn, tên cũng không phải là Y Vân mà vẫn y nguyên.
Vậy cội nguồn xuất xứ của tôi thật sự từ đâu, người dân Gò không mấy ai để ý đến. Họ chấp nhận sự di tản, tị nạn, trôi giạt của tôi như một đứa con thất lạc, bị bắt cóc, gặp nạn hoặc gì gì khác không màng biết, cần đuợc cứu vớt đùm bọc nuôi dưỡng chăm bón phát huy hết lòng.
Dinh Tỉnh Trưởng Gò công nơi phát xuất trồng cây xơ ri đầu tiên ở Gò công
Người Gò công thường là như thế đấy, mà thật sự các bạn biết không, tôi không dễ nuôi đâu. Không trồng bằng trái hoặc hột được, tôi chỉ sống bằng sữa mẹ qua cách ghép, tháp cành cho đến khi nào « đủ lông đủ cánh » có rễ cái rễ con tự lập rồi thì mới được « hạ thổ » tách rời thân cây mẹ. Thế là tôi được cha mẹ nuôi của tôi ngày ngày năm nầy tháng nọ chăm chút chăm lo gầy dựng truyền giống làm cho chúng tôi tồn tại, nở mặt nở mày cho đến ngày nay.
Như tôi đã trình bày, lúc đầu chúng tôi thật èo uột, vô tích sự, nhà nào không khá giả là chê ngay vì nuôi tôi tốn công sức hơn trồng cây Táo ta, Chùm ruột, những anh chị nầy ít đòi hỏi nhu cầu như vô phân tưới nước thường xuyên, năng suất lại khá cao, sử dụng được vào nhiều việc. Rắc rối hơn nữa là tôi bị « allergie » dị ứng, nhạy cảm, không phải chỗ nào cũng thích hợp mà chỉ sống mạnh nơi nào thích nghi với cơ thể mình tức là rất kén đất trồng.
Gò công lại là vùng nước lợ sáu tháng hằng năm, trong mùa nắng ráo việc trồng trọt bị hạn chế rất nhiều vì thiếu nước ngọt cần thiết. Mảnh đất lành mở vòng tay tiếp đón tôi trước kia không phải là vùng phì nhiêu, canh tác chỉ xảy ra trong mùa mưa.
Do ảnh hưởng pha trộn bởi hai nguồn nước mặn ngọt của biển cả sông ngòi nên chất lượng có vị ngọt điểm đệm thêm vị mặn đậm đà « có hậu » thẩm thấu trong cấu trúc cơ thể, cây trái quê tôi tuy không thật sai quả nhưng hương vị đặc biệt khó nhầm lẫn với một ai như anh chị Mãng cầu (na), Nhãn, Míảvà sau nầy ngay cả thằng con nuôi sanh sau đẻ muộn là tôi cũng được thừa hưởng phần gia tài trời cho ấy.
Ðiều làm tôi thường thắc mắc là không hiểu ai đặt ra tên tôi như thế ? Nhìn hình dáng bề ngoài, tôi chẳng giống gì cây Sơ ri chính gốc. Họ hàng Cerise mà người ta gán ghép cho tôi có thân nhánh cành to cao hùng mạnh chứ không khẳng khiu mảnh giẻ như tôi, lá to dài đứng xa nhìn mường tượng như cây ngọc lan phong lưu quí hiếm khác hẳn với tôi sum suê tựa như khóm hoa lài, cụm nguyệt quí. Lá Sơ ri tôi dài dài hay tròn tròn duyên dáng như đồng tiền lúm sâu trên gò má của ai kia.
Người ta bảo chẳng hạn cây quít xứ nầy đem trồng xứ khác không còn giữ vẹn nguyên xi từ ngoại hình đến bên trong, do ảnh hưởng căn bản của khí hậu phong thổ, có thể vì vậy mà tôi thay đổi dạng chăng, nguyên nhân nầy trong trường hợp tôi xem ra không vững lắm.
Nhớ đến bài hát « Les Cerisiers Roses et Pommiers blancs»(Những cây sơ ri hồng và cây táo trắng) lời của Jacques Larue, nhạc của Louiguy 1950, với hoa sơ ri to to xòe cánh trắng hồng nhạt phủ đầy tàng lá thật thơ mộng quyến rũ, đặc điểm nầy tôi cũng thụ hưởng được một phần cái « gên » hồng nhan ấy nhưng so với anh chị bên trời Âu mỹ miều khoe dáng ngọc, hoa Sơ ri tôi đúng là hiện thân của Á Ðông nhỏ nhoi khép nép kín đáo, hoa mini, bonsai thật dễ thương. Nếu có dịp thi tuyển Hoa hậu tất các giám khảo cũng phải phân vân lựa chọn cho điểm vì « Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười ».
Hạt trái cerise ta
Còn con cái của chúng tôi thì hoàn toàn khác hẳn. Trái Cerise Âu tròn, chín mộng có loại màu cam đỏ, loại nâu sẫm với hột tròn cứng còn đàn con chúng tôi thì lại có hình thù quả cà chua nho nhỏ chia làm ba múi rõ rệt trong có ba hột xơ xơ nếu có lỡ nuốt cũng không sao.
Xơ ri ta
Chỉ có lớp da, thịt thì cấu trúc gần giống nhau, làn da mịn màng bóng loáng mộng nước bao bọc lớp thịt dòn dòn chua ít ngọt nhiều, cắn vào nghe tiếng « phụp », nhai nghe dòn tan, ai đã thử qua một lần thường ít quên vị hòa hợp đặc biệt chua chua ngòn ngọt mằn mặn của một loại trái cây lãng tử, di cư bất hợp pháp, vô lý lịch, không biết xuất xứ từ đâu, nhập cảng bằng đường bộ, thủy hay bay nầy.
Cerises Âu châu
Có dịp viếng Gòcông, xin bạn ghé thăm một vườn xơ ri nào trên đường đi của bạn vào mùa trái cây nở rộ. Xinh xinh thay những chùm trái cuống dài chụm nhau trên ngách lá cành, tùy tuổi đời đổi màu từ xanh vàng đến cam rồi đỏ sẫm bao phủ bởi những nét chấm phá hồng hồng phơn phớt tím của những cụm hoa li ti như đôi môi trái tim cùa các thiếu nữ « mười bảy bẻ gảy sừng trâu ».
Nhánh cành dẻo dai yểu điệu tua tủa lá tròn xanh như một bức rèm thêu loáng thoáng hình ảnh của bao thiếu nữ má hồng đến tuổi dậy thì cập kê e thẹn hé nhìn. Các em gái nhỏ có thể vui đùa làm dáng bằng bông trái sơ ri thay hoa tai ngắn hay dài đong đưa tùy theo mốt thời trang bấy giờ.
BONG SO RIHoa lá cerise
Chắc các bạn cũng biết rõ là cái gì lạ hiếm thường được trân trọng nâng niu. Tâm lý con người mà, ai mà biết hay khám phá điều gì trước hơn người khác, dù là chuyện cỏn con không vĩ đại cũng thỏa mản được tính hiếu kỳ, độc tôn của con người, sáng kiến nào cũng cần được khích lệ phát huy. Do đó càng ngày tôi được nhiều người ưa chuộng, trở thành sáng giá, đắt hàng hơn.
Người ta lại bảo « cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa», tôi không được nuông chìu đến thế nhưng trái của tôi dễ dập thối nhanh. Vì vậy những trái chín đầu mùa hay những « trái chiến » tươi mộng đỏ thường được nâng niu hái bằng tay, từng chùm hay trái một. Rồi khi đến mùa chín rộ, tùy vườn cây to nhỏ, người ta hứng lấy tôi bằng cách trải tấm nhựa ni lông, vải bố dưới đất rộng quanh gốc tàng lá cây xơ ri, dùng tay hái hay cần móc lay nhẹ cuống cành cho trái rụng. Trái được nhặt cẩn thận xếp vào thúng để bán lẻ hoặc trong những cần xế to dành cho những bạn hàng buôn sỉ.
Trước kia chúng tôi cũng được theo người dân Gò đi làm ăn xa, lập gia đình đây đó hoặc những ai có lần đến cư ngụ một thời gian ở đây mang đi, bao năm qua vẫn chưa có nơi nào thích hợp với nếp sống của tôi. Có nhiều tỉnh như Vũng tàu, Bà rịa, miền Ðông?cũng thử trồng nhưng chất lượng đổi khác rõ rệt . Cây phát triển nhanh tươi tốt nhưng ở nơi nầy trái lại lạt phèo mất chất chua hay ngọt, nơi khác thì lại có mùi hăng hắc khó ăn. Thế là ý định cho tôi đi « lao động » ở vùng đất mới khác bất thành, và có lẽ đó cũng là dịp may cho tôi, tôi trở thành quí hiếm, đặc sản Gò công.
Rồi từ thập niên 50 trở đi, tôi trở thành món quà biếu xinh xinh lạ ngon cho bạn bè thân nhân gần xa. Các cậu cô trẻ còn đùa nhau nhại gọi tên tôi là « Chéri » và thường vui vẻ hát khi thì « Cerise je t?aime, cerise je t?adore » lúc lại nhẹ cong lưỡi lên du dương « Chéri, je t?aimẻ » để diễn tả ý tình mình.
Riêng chúng tôi càng ngày càng thích hợp với phong thổ vùng nước mặn đồng khô nầy hơn nhiều anh chị khác chỉ ra trái vào mùa mưạTôi không kén ăn khó uống cũng không đòi hỏi cao lương mỹ vị để chóng lớn. Phân bón không cần thiết hằng năm, chỉ cần tưới nước đều đặn trong mùa nắng ráo là trái có quanh năm, năng suất cao lên, lợi tức thu hoạch tăng thêm.
Hơn thế nữa vì quê tôi chỉ cách Saigon trên dưới 58km, nên mùa nào cũng có mặt, sự đóng góp tích cực của tôi dần dần được để ý rồi yêu chuộng hơn. Vườn sơ ri tăng lên gấp bội. Người ta tháp cành ghép nhánh ươm cây phổ biến rầm rộ rộng rãi. Kỷ thuật canh tác chăm bón cũng được nghiên cứu sâu rộng tăng cường. Việc phân phối thu mua buôn bán được quy hoạch lại dễ dàng hơn trước.
Hằng ngày, ngoài việc bán lẻ ra, tôi còn được bạn hàng mối lái đến đặt hàng, trả giá cò cưa tùy theo thị trường. Khác hẳn với anh chị Mãng cầu, Chuối,?có thể « mua mão » tức là mua trước cả vườn, cả cây to, Xơ ri tôi thật khó định giá trước vì chỉ cần một cơn mưa to, bảo tố là có thể thất thu ngay.
Trái cũng thế, vừa chín tới thì thật dòn ngon nhiều nước nhưng chín rục lại dễ dập đổi vị ngay. Do đó vệc bảo quản cũng thật công phu. Chủ vườn thường bắt đầu hái trái hườm hườm chín từ sáng sớm, đến chiều thì bạn hàng đến thu mua đem về vựa. Ở đây lại phân loại lớn nhỏ dở ngon rồi xe chở hàng lên đường ngay trực chỉ điểm hẹn như Saigon hoa lệ phục vụ người có tiền thích của lạ.
Vựa cerises
Dần dần cha mẹ nuôi tôi còn khám phá thêm ưu điểm khác, ngoài vị ngọt thơm, màu hồng đỏ của chất nước cốt xem thật mát mắt đáng đồng tiền. Lúc đầu chỉ dùng hạn hẹp làm mứt, nấu rượu phổ biến trong phạm vi gia đình, trong tỉnh theo cách tiểu công nghệ rồi dần dần được kỷ nghệ hóa tương đối đại trà hơn dưới dạng nước ngọt xi rô, cao điểm nhất là Rượu Sơri sản xuất tại hảng Rượu Bình Tây Saigon.
Viếng Gò công một lần đi bạn, ở đây có câu « Rượu Gò công ai đong nấy uống » các ông có thể nhấp nháp rượu đế cất nấu tại nhà bằng gạo nếp, nếp than, nhum và nhất là rượu sơ ri đặc biệt nầy. Các cô sẽ thích thú hái những trái sơ ri mộng đỏ, cắn vào làm đôi môi rung động má thêm hồng. Chưa hết đâu, trái xơ ri còn xanh có thể dùng như « mồi » thay ổi, bần, me, kiệu chuảcho các ông nhấm rượu, bạn gái trẻ thì quây quần bên nhau nhai rôm rốp trái xơ ri xanh dòn, chấm muối ớt đỏ gay hay quẹt một tí mắm tôm chà, các vị ngọt mặn chua cay hòa lẫn kích thích giác quan mở rộng tầm nhìn và lòng người hòa đồng bình đẳng.
Qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, dù chưa được mọi người biết đến, Sơ ri tôi luôn biết giữ phận mình nhỏ nhoi nhưng luôn cố gắng siêng năng phục vụ bằng khả năng bẩm sinh sẵn có của mình.
Ngày nay rất vui mừng hãnh diện được có tên trên danh sách « Cây trái Việt nam », dù không có tài cao được trọng dụng như các anh Chuối, chú Cam, chị Quít, cậu Thanh long, anh Mảng cầu Na chễm chệ trên đĩa quả tử sang trọng, được bao người trong và ngoài nước trầm trồ yêu thích làm nở mặt nở mày cây trái nước nhà, Sơ ri tôi với khả năng thường sức mọn không ngớt theo gương người trước, luôn cố « gồng co », gò nắn mình hầu đóng góp phần nhỏ nào hữu dụng làm vinh dự cho mảnh đất giàu nghĩa tình đã cưu mang tôi, Gò công.
Trái mảng cầu ta hay trái na
Tuy nhiên, dù hiện nay chúng tôi đã có thế đứng khiêm tốn trên mảnh đất tạm dung mà chúng tôi hằng xem như quê cha đất tổ của mình, nhưng vốn « Cây có cội nước có nguồn », chúng tôi luôn mong tìm được gốc gác thật sự của dòng họ Sơ ri.
Nhất là trong dịp Xuân về Tết đến, nhìn cảnh mọi gia đình rộn rịp tề tựu bên bàn thờ tổ tiên tưởng nhớ công ơn sinh thành gầy dựng, chúng tôi càng chạnh nghĩ đến thân phận mình hy vọng có ngày tìm thấy tông tích cội nguồn.
Vì vậy, xin kính nhờ Quý Báo trời, Báo đất vui lòng cho đăng trên « Mục nhắn tin » giúp chúng tôi
« Tìm gia phả Sơ ri »
Và cũng kính xin Quý vị trưởng thượng nào có biết về nguồn gốc Sơ ri chúng tôi, chỉ giáo cho.
Thành thật tri ân.
Cô Năm Ðường người hàng xóm của chị Hai đang tất tả quay về nhà sau một ngày gặt hái trên cánh đồng bưng phía bên kia sông, chừng khi đi ngang qua cây Dừa nơi chị Hai đang ngồi thẫn thờ, lấy làm lạ cô Năm lên tiếng hỏi:
-Úy mèn đéc ơi, trời gần sụp tối rồi sao chị Hai còn lò mò ra đây mần chi, thôi (dô) nhà nghỉ ngơi đi chị, ở đây chút nữa ba con Muỗi nó "Thiêu" chị chết luôn bây giờ.
Nói có bấy nhiêu, không đợi chị Hai trả lời, cô Năm đi nhanh tới nắm tay kéo chị Hai đứng dậy để trở bước vô nhà, dường như chưa muốn nghe theo lời khuyên của cô Năm Ðường, chị Hai kéo trì tay cô Năm lại rồi nói:
-Tui muốn ngồi đây chút nữa chị Năm ơi, trong nhà buồn lắm ngồi đây coi (dậy) mà khuây khỏa, chị Năm có (quởn) ngồi đây chơi (dới) tui một chút.
Vốn là chổ thân tình, biết được tâm trạng chị Hai không được tốt sau cái chết của ông Hai Hiền ở xóm chợ, nên cô Năm đành ngồi xuống kế bên chị Hai rồi cô Năm cất tiếng khuyên nhủ:
-Thôi đừng buồn nữa chị Hai à, dù sao anh Hai Hiền cũng yên phận rồi, anh biết chị nặng tình như vầy chắc ảnh cũng mãn nguyện lắm đó.
Nghe cô Năm nói vậy, chị Hai bất chợt nấc lên nghẹn ngào:
-Chị Năm (hông) biết đâu, tui thương ổng lắm, ổng mất đi tui như thiếu hẳn một phần máu thịt của mình, ngẫm lại mấy đứa nhỏ nhà tui cũng quá đáng, nếu tụi nó thấu hiểu nỗi cô đơn của tuổi già thì chắc tụi nó không làm dữ khiến anh Hai buồn bã lâm trọng bệnh rồi qua đời.
Cô Năm dường như cũng nghẹn lòng sau câu nói của chị Hai, dằn cảm xúc đang trào dâng trong lòng, cô Năm an ủi thật chí tình:
-Chuyện dĩ lỡ hết rồi chị Hai, tui thấy con Phước con Lành hối hận lắm rồi, chị cũng đừng trách các cháu, vì sấp nhỏ nó thương chị, nó đã mất cha rồi, nay tụi nó không muốn "mất" luôn cả mẹ đó thôi.
Chị Hai nuốt lệ vào trong, chị khẽ gật nhẹ đầu sau câu nói của cô Năm , rồi chị cố nhướng mắt nhìn về phía cây cầu ván để cố tìm lại hình bóng người đã khuất...
***
Lòng đau quặn thắt khi tiển người chồng quá cố mình về "bên kia thế giới", chị Hai nhất quyết ở vậy nuôi con, chị sẽ không "bước thêm bước nữa", chị dốc lòng lo làm ăn để nuôi Phước và Lành hai con gái thật dễ thương của mình để chúng nên người.
Hàng ngày chị gánh nồi chè ra ngồi bán ngoài chợ quận, hôm nọ khi bày biện xong gánh chè ngoài hàng hiên phía trước nhà của người quen ngoài chợ, chị Hai đang lấy cái vá múc chén chè đậu xanh đầu tiên ra để cúng người khuất mày khuất mặt nhằm van vái họ phù hộ cho chị mua may bán đắc, chưa múc xong chén chè bổng dưng chị Hai nghe tiếng của một người đàn ông vang lên:
-Chào cô Hai, chèn ơi tui đang thèm chè dự định đi dạo một vòng chợ tìm mua, ai dè hên quá chừng tui vừa xẹt ra đường thấy cô Hai ngồi bán đây rồi, cô cho tui chén bự bự đi, nhiêu tiền cứ tính tui trả cho. Ồ không, cô lấy tui chén cô đang múc cũng được, thèm lắm rồi cô Hai ơi!
Chị Hai nghe ông khách đòi lấy chén chè mà chị dự định cúng cho "Cô hồn", chị Hai giẫy nẩy lên nói với ông khách:
- Í đâu có được ông anh, chén này tui cúng cho bá tánh, ông anh ngồi chờ chút xíu đi, tui thắp nhang xong tui múc cho ông anh Liền.
Ông khách nghe chị Hai nói vậy ông bèn lên tiếng:
- Ấy chết, tui không biết cô Hai múc để cúng, thiệt tui "lỗ mãng" quá, xin lỗi mong cô Hai bỏ qua cho.
Chị Hai nở một nụ cười thật tươi với ông khách để ông khỏi áy náy chuyện vừa rồi, trong khi chờ đợi ông khách tìm cách gợi chuyện:
-Tui là Hai Hiền nhà cũng gần đây, tui lên Sài gòn mần ăn bấy lâu nay, lâu quá nhớ nhà về thăm sấp nhỏ, tự nhiên tui lại thèm chè nên thả bộ ra mua, hồi trước trong nhà Lồng chợ ở đây có bà Tám bán chè chuyên môn luôn, từ ngày bả về "Chầu ông bà" rồi tui không ăn chè ở đâu nữa hết, ăn của bả mấy chục năm rồi, ăn chổ khác dỡ lắm.
Dường như biết mình đang nói hớ, ông Hai Hiền vội sửa sai :
- ý tui không phải chê bai người khác bán chè như cô Hai đây đâu, nhưng ăn một chổ nó quen rồi cô Hai, mà chắc cô Hai nấu cũng ngon lắm đây, tui nhìn cái màu chè là biết ngon hay không liền thôi.
Chị Hai thấy ông khách là dân cố cựu nơi này, và ông đã ăn chè của cô Tám mình mấy mươi năm thì kể ra rất thân tình, bởi qua cách nói của ông ta cô Hai đoán được như vậy, cô Hai bèn trả lời:
- Cha ông anh đây cũng rành rẽ về chè quá há, tui cháu kêu bà Tám bằng cô ruột, tui là "Truyền nhân" của bà Tám đó ông anh.
Nghe chị Hai giới thiệu về thân thế của mình, ông Hai Hiền mừng như bắt được vàng vì ông ngỡ mình chẳng còn cơ hội thưởng thức mùi thơm quen thuộc của nồi chè do bà Tám bán cho ông ăn từ thuở thiếu thời, vậy mà hôm nay ông lại có dịp thưởng thức mùi của hương vị ngày xưa.
Ăn một lúc ba chén chè, ông Hai Hiền chép miệng tỏ vẻ còn thèm thuồng, ý muốn kêu cô Hai múc thêm chén nữa, nhưng ông ngại ngùng, vì sợ cô Hai quở mình ăn gì mà như:"Hạm nhà binh" nên ông trao trả cái chén không lại cho chị Hai, vừa kêu chị Hai tính tiền ông ta vừa móc bóp lấy tờ giấy bạc một trăm đồng mới cứng trao cho chị Hai, ông Hai Hiền nói:
- Cô Hai nè, cô múc cho tui thêm bốn bịch đem (dìa), tối tui ăn tiếp, công nhận cô Hai nấu hương vị đúng y bon như bà Tám bán ngày xưa.
Trong khi chờ đợi chị Hai múc chè, ông Hai Hiền hỏi thăm nhà cửa, gia cảnh của chị Hai, vốn là dân miền thôn quê chất phát nên chị Hai nói hết sự tình nhà cửa của mình, hai người nói chuyện coi bộ rất tâm đầu ý hợp. Trao cho ông Hai Hiền bốn bịch chè và tiền thối lại, chị Hai thòng thêm câu nói:
- Bán chè bấy lâu nay ở đâu, tui chưa thấy ai hảo ngọt như ông anh nha, chắc ai ăn nói ngọt ngào chắc họ lấy hết của ông anh hồi nào không hay đa.
Ông Hai Hiền nghe chị Hai nói chơi như vậy ông thích chí cười tít mắt, ông lấy bốn bịch chè, còn số tiền chị Hai thối lại ông nhẹ nhàng đặt lại vào cái rổ tiền của chị Hai, ông nói:
-Cái này tui gửi cô Hai, coi như phụ thêm tiền củi lửa cho cô Hai nấu chè, còn không nấu chè thì coi như tui góp củi nấu cơm chung.
Chị Hai e ngại cằm số tiền trao lại cho ông Hai Hiền, người đẩy qua người kéo lại khiến bàn tay họ chạm nhau liên tục làm cho chị Hai mắc cỡ đỏ cả khuôn mặt, còn ông Hai Hiền là một "Gà trống nuôi con" bấy lâu nay đã thiếu vắng mùi hương của đàn bà, nay chung đụng như vậy cũng khiến ông cũng bồi hồi xao xuyến giống hệt như hồi ông vâng lệnh song thân về quê cưới vợ, dường như để gỡ thế bí đang xảy ra, ông Hai Hiền bạo gan nắm cả bàn tay chị Hai rồi ông nói:
-Cô Hai à, hoàn cảnh nhà cô vừa nói khi nãy thật đơn chiếc, hơn nữa tui mở hàng, tui sợ cái vía của tui nó nặng, lỡ dại cô bán không chạy thì coi như tui bù đắp thêm cho vui thôi mà, thà cô nhận cho chứ đừng đốt "Phong long" tội nghiệp tui nhe.
Nói xong câu trên ông Hai Hiền cười khanh khách, cô Hai thấy giằng co riết lỡ có ai thấy họ đàm tiếu chịu đời sao cho thấu, chị Hai cất tiền vô rổ và nói:
-Coi như tui cất tiền giùm ông anh nha, nay mai muốn ăn thì ghé lại ăn, tui trừ từ từ cho đến hết, ai đời tui lấy tiền của ông Anh coi sao cho đặng.
Sau câu nói trên cả hai người chúm chím miệng cười, vì họ "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e".
Buổi ban đầu ông và chị Hai gặp nhau như vậy đó, dù cho mới sơ giao vậy mà cả hai đã phút chốc có cảm tình với nhau, nói theo dân gian đây là hau người đã bị "Sét đánh" ngang trời và dường như họ đã là duyên là nợ với nhau tự kiếp nào...
***
Sau nhiều ngày ăn chè của người mình để ý yêu thương, trong bụng của ông Hai Hiền có lẽ lúc nào chè nó cũng nhiều hơn cơm là cái chắc, cho đến một hôm, cũng chén chè trên tay, ông Hai Hiền nói với chị Hai ý định ông sẽ đến nhà chị Hai chơi và để tìm cách "hợp thức hóa" tình trạng của hai người cho hai chị em con Phước con Lành chấp nhận cho chị Hai bước thêm bước nữa, nghe tình lang của mình nói ra ý nghĩ trên khiến chị Hai nhà ta "tá hỏa", trong thâm tâm chị cũng thật lòng yêu thương ông Hai Hiền, vì ông là một người có vai vế trong làng xã nơi này, hơn nữa ông Hai tính tình cũng hiền lành chân chất, chị Hai đến với ông cũng không có gì phải áy náy, có điều hai đứa con của mình, chắc chắn chưa sẳn sàng cho mẹ chia sẻ tình cảm cho một người xa lạ, nên chị Hai ngần ngại nói:
- Anh Hai nên từ từ đi, em sợ hai đứa nhỏ nó phản ứng làm anh buồn, để em nói xa nói gần ướm thử lòng tụi nó ra sao cái đã.
Ông Hai Hiền nóng ruột, ông nói
-Anh không vợ, em không chồng trên nguyên tắc mình công khai sống với nhau được mà, cứ đi làm hôn thú trước rồi chọn ngày lành tháng tốt mình làm mâm cơm cúng ra mắt hai bên, lúc đó con em và con anh phải chấp nhận chuyện đã rồi thôi, vì "gạo đã nấu thành cơm" chẳng lẽ đem đỗ bỏ.
Chị Hai nghe vậy tron lòng vẫn còn phân vân, phần thì ông Hai Hiền cứ đốc thúc ngày một, có lúc ông còn viện dẫn:
-Hai đứa mình đâu còn trẻ nữa đâu, nếu không tính sớm để nương tựa cùng nhau thì đến bao giờ hả Hai.
Trước áp lực tình yêu khiến chị Hai quyết liều một phen, chị chấp nhận cho ông Hai Hiền đến nhà ra mắt hai đứa con của mình...
***
Ðích thân ông Hai lái chiếc Citroen đến nhà chị Hai, xe đến chiếc cầu ván phải dừng lại, ông Hai cho xe de sát vô mé sân nhà của căn nhà nằm gần đó, con nít, ông bà già, thanh niên trai gái xúm lại xem một hiện tượng lạ lẫm khi thấy ông Hai Hiền trong bộ Veston rất trịnh trọng, ông khệ nệ ôm quà cáp lội bộ qua cây cầu ván để thẳng tiến đến nhà người yêu của mình, làng xóm lúc này chộn rộn hẳn lên, người hiếu kỳ đi theo như xem đám hội hè của làng, bầy chó trong xóm được dịp hùa nhau sủa inh ỏi cả một góc xóm, trong nhà mình con Phước , con Lành thấy dòng người đông đúc tiến đến nhà mình, tội hai đứa không kịp hiểu ra chuyện gì thì chị Hai từ trong sau chái bếp chị tất tả chạy ra, chừng thấy ông Hai Hiền "Bày binh bố trận" quá sức tưởng tượng khiến chị chới với, chị thầm trách ông Hai:
-Cái ông quỷ này bày cái trò gì đây không biết, um sùm kiểu này làng trên xóm dưới hay hết ráo rồi còn gì, thiệt là ....
Buổi cơm thân mật trong nhà chị Hai diễn ra gượng ép, bởi hai đứa nhỏ nó chưa sẳn sàng cho chị Hai vui duyên mới, nên khi nghe hai ông bà cho hay ý định gá nghĩa cùng nhau của mình thì hai đứa khóc như mưa, đứa thì đòi bỏ nhà đi biệt xứ, đứa thì đòi về ở chung với chú thím Út em của ba nó...
***
Sau bữa cơm, ông Hai Hiền thất thiểu ra về, đến cây cầu ván ông quay lại nhìn lần cuối căn nhà ông định vào nương náu cuối đời với chị Hai, bà con chừng hiểu chuyện có người thương cảm cho ông, có người lại đứng về phía hai đứa nhỏ.
Ðến khi chiếc Citroen khuất hẳn sau hàng rào của nhà cuối xóm, mọi sinh hoạt trở lại bình thường như chưa từng có chiếc xe này léo hánh đến đây.
***
Cứ chiều đến chị Hai ủ rũ ngồi dựa gốc Dừa, cô Năm Ðường khuyên lơn đủ điều nhưng chị Hai bỏ ngoài tai, rồi không hiểu cô Năm nói điều gì thì tự dưng chị Hai mừng vui ra mặt, cả hai cười khúc khích như chưa từng xảy ra việc gì...
***
Hai đứa con thấy mẹ buồn bã suốt ngày, nên tỏ vẻ ăn năn về việc phản ứng thái quá với ông Hai Hiền khiến ông "từ giả cõi đời "...
Một sáng nọ, con Lành đang học bài trước nhà, bổng bó thấy dáng một người như ông Hai Hiền, ngỡ mình gặp ma giữa ban ngày, vì nó đã nghe xóm làng bàn tán về cái chết của ông khiến nó la làng:
-Má ơi! Cứu con, ma , ma,ma.
Nghe con la làng chị Hai tức tốc chạy lên nhà trên, thấy Ông Hai Hiền đứng giữa nhà, chị khóc như mưa. Thì ra ông Hai Hiền cao tay ấn giả chết để thử lòng mọi người, mà việc này có sự đạo diễn của cô Năm Ðường.
***
Qua cơn sóng gió, mọi việc diễn ra như ý muốn, chị Hai và ông Hai Hiền hạnh phúc cùng con Phước, con Lành trong căn nhà nhỏ hàng ngà tràn ngập tiếng cười.
SG. Một ngày lạnh giá 21.12.07
Hôm nay tôi ngồi đây viết lại kỷ niệm này với biết bao cảm xúc trong lòng không ngăn được. Tâm trạng một người tù viết nhật ký thật là lo sợ. Trong tâm trí tôi, cái cảm giác cuả một thuả xa xôi nào đó lại trở về, như khi ngồi viết những dòng Lưu Bút cuả thuả học trò thời lớp đệ Tứ, đệ Tam mà trên trang sách đầy dẫy những bút tích của thầy cô và bè bạn. Vâng, thì tất cả cũng đã trở thành kỷ niệm : Banmêthuột đêm kinh hoàng, con đường rừng từ Ea-Sup (Banmêthuột ) qua Ðức Cơ, Thanh Bình , Thanh An (PleiKu) với những lối mòn đầy cỏ tranh mà hai bàn chân khi đặt lên còn để nguyên dấu máu, bây giờ cũng đã là kỷ niệm, có khác gì với kỷ niệm thời ấu thơ hay thủa cắp sách đến trường, khi mới biết yêu và biết hò hẹn . Tôi cứ nghĩ rằng muôn vàn kỷ niệm là muôn vàn dấu yêu và kỷ niệm thì kỷ niệm nào cũng êm ái nên thơ.
Và rồi trong muôn vàn cái đã qua đó, khi nhớ lại GiẤC MƠ VIỆT NAM , tôi vẫn không cầm được cảm xúc , bao hệ lụy cuả giấc mơ có lẽ mãi mãi vẫn là gánh nặng và nỗi băn khoăn trong lòng tôi, tựa như ngày đầu tiên tại Buôn Ea-Súp người bộ đội trao cho tôi một nắm cơm vắt trộn muối bằng qủa trứng, mà vì hai tay còn bị trói cánh khỉ đã không cầm được nắm cơm gọn gàng, nắm cơm rơi xuống đất và tôi nhịn đói, cảm giác và suy nghỉ của tôi lúc đó thật nặng nề, vì tôi không thể hình dung ra được đoạn đường sau này tôi phải đi .
Rồi hôm nay, nhìn những căn nhà tù vách lá, được bao quanh bởi hai dãy hàng rào kẽm gai , và trong một nhà tù , tôi chợt gặp một bóng dáng thân quen của một người, mường tượng như tôi đã được gặp ở nơi nào . . . , trong một giấc mơ (?) tôi chợt nghĩ, phải rồi, trong một giấc mơ, giấc mơ đã chìm sâu trong ký ức và quên lãng mất rồi, nếu không có những căn nhà tù và bóng dáng người đó nơi đây. Và sau này tôi gọi đó là Giấc Mơ Việt Nam. GiẤC MƠ VIET NAM đến với tôi trong một tình huống không thể nào xảy ra được, tuyệt đối là không, đối với tôi trong điều kiện và hoàn cảnh thời bấy giờ, cho nên tôi cơ hồ đã quên mất . . . đó là khoảng tháng 12 năm 1974.
Tôi tốt nghiệp Khoá Sĩ Quan Trừ Bị tại Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức vào thời điểm mà chiến tranh thật nóng bỏng. Cộng sản Bắc Việt đang xâm nhập miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh cấp sư đoàn với chiến xa T54 và hoả tiển 122 ly. Các mặt trận nổ ra tại vùng Cao Nguyên và Vùng I Chiến thuật đang ở vào thời kỳ quyết liệt . Rất nhiều bạn bè tôi đã tình nguyện vào các đơn vị như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến .
Người bạn nằm cạnh tôi, Lâm Ngọc An, cháu gọi Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, Lâm Quang Thi bằng chú ruột xin qua Nhảy Dù, Nguyễn Văn Thi, Nhảy Dù, Trần Văn Hoàng, Nguyễn Văn Y , Thủy Quân Lục Chiến . . . hầu như ai cũng thích mủ đỏ hoặc mủ xanh , và câu : ?? một xanh cỏ, hai đỏ ngực?? thật quyến rủ trong thời gian này .
Tuy nhiên, không phải ai xin cũng được, tôi còn nhớ Thiếu tá Võ Văn Thuận, Khối Quân Huấn, trong một lần giảng huấn đã noí với chúng tôi ?? nếu các sĩ quan đều xin qua Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến . . . thì Bộ binh để cho ai, Ðịa Phương Quân ai chỉ huy, các ngành chuyên môn khác cho giải ngủ hết sao ! ?? mà thật sự là như vậy, cho nên Nguyễn Ðình Thi về Sư Ðoàn 23 BB, Diệp Bảo Lợi về Quân
Vận Pleiku, mặc dầu Thi và Lợi đều xin về toán người Nhái. và tôi xin về Biệt Ðộng Quân thì lại nhận lệnh về 930.O.
Tôi còn nhớ ngày chọn đơn vị, tối hôm đó không ai ngủ được , Lâm Ngọc An hỏi tôi ??
- Biệt Ðộng Quân há, có phải vì Ðai tá Kiệt không chứ (?)
- Ðâu có, vì hai ông họ Lâm thôi ??.
Tôi hầu như còn nhớ rất rõ những khuôn mặt trong đại đội tôi, và chỉ một người không được phép chọn đơn vị, đó là Nguyễn Bích Mạc, Tham vụ Ngoại Giao, vì anh phải trở về Bộ Ngoại Giao sau thời gian thụ huấn quân sự .
Quân trường cho đến bây giờ vẫn là kỷ niệm êm ái như bao nhiêu êm ái khác trong lòng tôi. Những buổi chà láng bằng Cà-mèn hay những sáng chạy bộ tập thể dục với các bài hát, mà bài tôi thích nhât là bài Việt Nam Việt Nam cuả Phạm Duy. Dư âm cuả những đếm bước ?? một hai ba bốn . . . một hai ba bốn . . . anh em ơi . . . đem chí trai lưu tiếng ngàn thu . . . ? ? bài hát mà tôi đã quên mất và cũng không còn nhớ được tựa đề , mãi đến bây giờ vẫn còn đồng vọng trong tôi . Và cái đặc biệt phải nhớ cuả khoảng đời làm Sinh Viên Sĩ quan là hình phạt dã chiến và cúp phép cuối tuần sau thời gian mang Alpha .
Phạt dã chiến đúng là dã man cuả sự huấn nhục . Trong vòng 5 phút, anh phải thay xong quân phục, mang dày, ba lô, dây TAB , . . . chạy 50 vòng sân cờ ! mà thực ra chỉ 10 vòng thôi là đã xỉu rồi !
Trong thời gian làm sinh viên sĩ quan, thực ra tôi chưa lần nào bị cúp phép cuối tuần, và hình phạt này được coi là nặng nề lắm. Tất cả sinh viên chỉ chờ trưa thú 7 ra phố, hoặc về với gia đình, thăm ??người yêu của lính ?? hay bát phố làm quen , thơ mộng không khác gì lòng yêu thầm học trò Trưng Vương hay Gia Long như những bài tình ca về lính thời đó . ?? Nếu em không là người yêu của lính . . . ai sẽ đón em chủ nhật trời xinh . . . ai sẽ đón em lúc tan trường về . . . ? ?
Tôi mãn khóa học 930.0 thì được chuyển về Quân đoàn II, PleiKu, nơi mà người Biệt Ðộng Quân Biên phòng quen hát ?? Pleiku đi dễ khó về, trai đi có vợ, gái về có con ?? . Nhưng thật ra Pleiku là một thành phố hiền hoà rất dễ thương , từ tháng 9 đổ về cho đến tháng 12 hàng năm, thành phố dày đặc sương mù vào mỗi sáng, đặc biệt là thung lủng cầu số 3, từ Thị Xã Plei ku về Thành Pleime, Bộ Tư Lệnh Quân đoàn, sương mù dày đến nỗi xe sau khó có thể nhìn thấy xe trước, dù đã bật đèn pha .
Khu phố cũ Diệp Kính với những con đường tuy ngắn nhưng rất sạch, những quán ăn, phòng trà, khách sạn rất khang trang. Khu chợ Mới rất thoáng nhưng sầm uất hơn .
Là một tỉnh của Cao Nguyên được coi như biên phòng, nên Pleiku được xem là thành phố cuả lính; và quán café lính , là café Dinh Ðiền, nỗi tiếng đến độ khi nhắc đến café, là người ta nói đến café Dinh Ðiền Pleiku.
Tuy nhiên, điều làm tôi mãi mãi còn cảm được điều mê luyến trong lòng mình , là căn phòng của Khu cư xá Sĩ Quan độc thân tôi ở, trong khung thành Pleime. Phòng cạnh tôi là trung tá Phan Viết Ba và một bên là phòng đại tá Tham Mưu Trưởng. Có lẽ nhờ làm hàng xóm cuả hai vị sĩ Quan Tham mưu trưởng và Chánh thanh tra, nên tôi được khuyến khích đi học lại, dù công việc hàng ngày ở đơn vị thật bận rộn. Tình cảm đằm thắm đó càng ngày càng sâu , nhất là sau khi tôi đậu xong Cử nhân Luật năm thứ 3. Tôi cảm động mỗi lần sắp đến ngày thi, là đại tá TMT gọi điện thoại nhắc đơn vị trưởng cuả tôi gởi giấp phép cuả tôi lên cho ông ký. Sự quan hệ thân mật ấy còn giữ mãi cho đến sau này, khi tôi rời Quân đoàn, và ngày tôi nhận đơn vị mới, chính TMT và Chánh Thanh tra gọi điện thoại hỏi thăm tôi qua đơn vị mới, dầu hai vị láng giềng cuả tôi ngày đó hôm nay đều đã thay đổi phương vị. Tôi hiểu đó là lời giới thiệu tế nhị của cấp chỉ huy.
Hôm nay, một ngẩu nhiên hay tình cờ bắt gặp lại bóng người trong mộng ở khu trại tù này, đã nhắc tôi nhớ lại giấc mơ xưa, giấc mơ xảy ra vào thời điểm mà bạn bè tôi gọi tôi là ?? đường hoạn lộ thênh thang tiến bước ?? , cho nên tôi không thể nào tin được giấc mơ tôi đã mơ : " . . . một người thiếu nữ bị xử bắn trước sân tù, bổng dưng không rõ vì đâu, tôi đã nhào ra ôm lấy cô ấy và lăn nhiều vòng trên sân tù để đỡ cho người con gái ấy 36 viên đạn súng colt 45. Và rồi chúng tôi cùng quằn quại trước sân tù . Người ta bắt tôi và dẫn tôi vào một căn nhà rất lớn , được ngăn chia nhiều phòng, tại đây, tôi gặp được ba tôi , ông bảo tôi ngồi xuống ở phòng khách, rồi ông đi vào phòng của một người M ỹ . . .
Một mình ngồi ở phòng khách, mơ hồ và buồn bã, tôi lơ đểnh nhìn quanh căn phòng trống rỗng, rồi nhìn xuống bộ salon, thấy trên bàn có cuốn sách bìa màu xanh lá cây, in hai chữ VIỆT NAM màu xanh rất đậm, nổi bật lên nền bìa cùng với hai hàng chữ tiếng Anh rất nhỏ, tôi không đọc được, tôi ngạc nhiên tự hỏi mình ?? tại sao lại có cuốn Việt Nam ở đây, và vội vàng đem cuốn sách dấu xuống tầng dưới cuả chiếc bàn Salon, lấy mấy tờ báo tiếng Anh che lên trên. Một lúc sau, người Mỹ và ba tôi bước ra, người Mỹ cầm mấy cuốn sách trên bàn lên và hỏi trống không : ?? cuốn Việt Nam tôi vừa mới để đây đâu rồi " ? , thoạt đầu tôi không muốn trả lời và có ý định dấu lại cuốn Việt Nam , nhưng khi người Mỹ hỏi tới lần thứ 3: ??cuốn Việt Nam tôi vừa để đây đâu rồi ", tôi vội vàng trả lời: ở đây, tôi cất nó ở đây , và lấy cuốn Việt Nam ra trao cho người Mỹ . . . ?
Tôi đem giấc mơ xảy đến với tôi vào khoảng tháng 12, 1974 kể lại cho hai người tù cùng trại là ông Lê Xuân Hồng, cựu nghị viên Hội đồng tỉnh , và ông Ðỗ Minh Giảng, trưởng ty Học chánh Banmethuột thời bấy giờ, hai người đều im lặng , một lúc sau ông Hồng nói :
- Việt Nam lại rơi vào tay Mỹ ?
- Cũng có thể, để tôi tìm người giải đoán thêm, ông Giảng nói ,
- Coi chừng bị cùm biệt giam nhé, hãy cẩn thận, ông Hồng bảo ông Giảng .
Suốt một tuần lễ, cứ sau giờ cơm chiều, lợi dụng khoảng thời gian chưa bị đẩy vào trại để khóa trái cửa, tôi, ông Hồng và ông Giảng thả bộ với nhau quanh sân tù bàn tán về giấc mơ, và vẫn gọi đùa là Giấc Mơ Việt Nam.
Tôi cũng tìm cách hỏi tin về người con gái ấy, được biết cô tên Ngô, bị kết án 20 năm tù về tội cắt đường dây điện ở khu cư xá Lam Sơn thuộc Sư Ðoàn 23 BB trong những ngày đầu Banmethuột rơi vào tay cộng quân .
Giấc Mơ Việt Nam chẳng biết thế nào có linh nghiệm như lời giải đoán của ông Hồng và ông Giảng hay không, nhưng tôi tin nhất định một cái gì đó sẽ ứng nghiệm cũng như bao giấc chiêm bao đã đến với tôi từ thời đi học.
Tuổi học trò ở trang lứa chúng tôi rất vất vả, học sinh phải học hết các môn học để trả lời các câu hỏi của đề thi cho những kỳ thi tốt nghiệp, mà chưa áp dụng chương trình thi trắc nghiệm chọn a,b,c,d khoanh như các kỳ thi tốt nghiệp sau này. Tất cả các môn học đều phải thi và có hệ số, thí dụ bạn theo Ban B (banToán), thì toán hệ 4, nghiã là lấy số điểm bạn có được nhân cho 4, Lý, Hoá hệ số 3, Triết hệ số 2 ( cho đệ nhất, Tú Tài ÌI ) hay Việt Văn hệ số 3 cho Ban C (văn chương ) và sinh ngữ là môn chính, có hệ số cao nhất, toán hệ số 1 . . .
Thi tốt nghiệp Trung học Ðệ Nhất cấp ( lớp 9 ) cũng tương tự như vậy . Chương tình giáo dục cuả bậc trung học mang tinh thần phổ thông, nghĩa là không có sự phân ban tuyệt đối như ở đại học nên rất nặng nề.
Lên đại học rồi, học sinh có quyền thở dài một cách khoan khoái, vì ở đại học có sự phân ban rõ ràng , ví dụ trường đại học Khoa học có phân khoa Toán , Lý Hóa Sinh . . . Ðại hoc Văn Khoa có ngôn ngữ, Pháp văn, Triết Ðông, Triết Tây, Sử địa . . . Luật Khoa có Kinh tế, Tư Pháp, Công Pháp .
Tôi không hiểu và không có cách nào giải thích về những giấc mộng thần bí của tôi, nhưng như rằng, mọi kết quả của các kỳ thi, tôi luôn được báo trước, ví dụ tôi nằm mơ thấy mình bước ra phòng thi tươi cười hỏi bạn bè về đáp số cuả bài toán và thấy là mình làm đúng . Như vậy có nghĩa là kỳ thi đó tôi đậu . Hay hoặc là năm tôi thi Trung học Ðệ Nhất Cấp ở trường Tiểu Học Bàn Cờ , bổng dưng tôi mơ thấy tên tôi không có trên bảng niêm yết trước cửa vào Phòng Thi , tôi lo sợ đến đổ mồ hôi, rồi giật mình thức dậy. Quả thật năm đó tôi thi rơi .
Trong năm đầu ở trại tù, tôi có 2 giấc mộng liên tiếp báo cho tôi những điềm lành . Giấc mộng thứ nhất, tôi thấy má tôi dẫn tôi đến viếng một ngôi chùa cổ ở Bangkok, và giấc mộng thứ 2 là tôi thấy nhà tù tôi đang ở bổng nhiên bốc khói mù mịt, sau đó mới thấy lửa bốc cao .
Giấc mộng thứ 2 tôi suy đoán mình sẽ chuyển trại, nhưng là trại tốt hơn, hoặc sẽ được tha . Nhưng giấc mộng thứ nhất, không làm sao giải đoán được. Tôi chỉ đành chờ ứng nghiệm Và tôi coi đó như những cảm ứng tâm linh ở một cõi vô hình mà không dễ mấy người được cảm thụ , chỉ là không biết đến bao giờ giấc mộng ấy ứng nghiệm ở trong đời .
Méwal tháng 4 năm 1977
(tudu)
Banmêthuột NGÀY ÐẦU CHIẾN CUỘC.
..Một mùa Ðông nữa lại ghé qua
Bao năm vui, giận, giữa tình ta
Anh vẫn người tình ngay, lì, thật(*)
Bé còn nũng nịu, bướng(*) đây mà...?
(*)(ngay thẳng, chai lì, chân thật, bướng bỉnh)
Mới đây mà đã 20 năm từ ngày tụi mình tình cờ làm quen, kết bạn, quí mến, thân thiết, rồi tình cảm gắn bó hơn để trở thành vợ chồng sau bao năm tìm hiểu quen biết. Thời gian lặng lẽ trôi qua, có lẽ ý nghĩ và ngôn từ đã không còn đủ để viết thêm những gì mà bé muốn diễn tả, vì bé thật sự rất hài lòng và hạnh phúc với những gì mình đã và đang có trong cuộc sống lứa đôi. Bé đâu phải là người cầu toàn để bắt anh phải hoàn thiện, thay đổi và bé cũng không phải là người đua đòi, để bắt buộc người bạn đời của mình những việc gì quá đáng. Nhưng điều bé vui ở anh, có lẽ là sự hiểu biết, tính rộng lượng và dám đương đầu với sự thật, dám can đảm chống đối hay nói ra ý nghĩ khi thấy chi sai trái, bất công, và nhất là dám nhận lỗi lầm khi mình vướng phải.
Có lẽ tụi mình đã già, đã trưởng thành, đã bớt mơ mộng và thật tế hơn rất nhiều. Anh đã không còn trách móc, giận dỗi như ngày xưa nữa khi bé thích làm việc giúp thiên hạ, hay mất thời gian liên lạc với bạn bè mà không dành đủ thời gian cho riêng anh. Anh đã tin tưởng và ủng hộ sự trong sạch tình bạn của vợ mình với những anh bạn đã từng quý mến bé, như anh đã từng là một trong những chàng như thế, cũng như tình bạn có thật giữa những người khác phái trên cỏi đời này.
Tháng ngày trôi qua thật nhanh, nhanh đến nổi bé đâu ngờ tụi mình đã hơn 40 tuổi đời. Ngày nào mới quen nhau, mình còn là những cô cậu sinh viên đang miệt mài kinh sử dưới những mái trường đại học. Một thời mộng mơ dễ thuơng với những mối tình chân thật, trong trắng của tuổi mới lớn, của thưở đầu đời, không so đo, suy tính hơn thua, tiền bạc, giàu nghèo, lợi danh... Cám ơn anh đã chia sẽ bé những buồn vui, hạnh phúc trong suốt thời gian qua, anh đã và đang vẫn kiêng cường đứng cạnh ủng hộ cũng như nâng đỡ, lắng nghe bé những lúc nước mắt chảy quanh,
đau lòng vì chứng kiến hay lắng nghe những cảnh chướng tai gai mắt, không đẹp lắm của đời thường, người quen, gia đình họ hàng?
Sau 13 năm cuộc sống vợ chồng, tụi mình đã có thêm 2 thành viên kháu khỉnh trong gia đình bé nhỏ, bé cám ơn anh đã thương yêu và hướng dẫn cho con những trò chơi của tuổi thơ: đi bộ trong rừng, thả diều, câu cá, nuôi dế, bắt cua.... để con thật sự có một thời thơ ấu hồn nhiên đáng nhớ. Bé rất mừng khi anh cũng có cùng ý nghĩ là sau khi có con, việc chăm lo mong cho con thành người giúp ích cho xã hội, và dành thời gian cho con là quan trọng nhất, vì mình chào đón con vào đời bởi tình yêu thương chứ không phải vì muốn có sự ràng buộc giữa vợ chồng, hoặc thấy bạn bè có con mình cũng phải có con theo, hay hy vọng có người sẽ lo cho mình về sau như những chuyện xảy ra lãng vãng xung quanh ta... Mỗi lần nhìn con vui đùa, dắt con đi đó đây hoặc có những khi nổi nóng lúc dạy con học, bé lại thầm cám ơn trời Phật đã ban tặng cho mình những gì mình đã và đang có trong cuộc đời này... Biết ra sao ngày sau, nhưng bé sẽ mãi trân trọng những gì mình đã và đang có của ngày hôm nay...
Bất chợt viết cho ngày quạ..cho tình bạn tri kỷ 20 năm và tình già 13 năm của tụi mình
"Cảm ơn anh đến bên đời,
Ðể cho bé biết tình người thủy chung"
Texas, xứ nóng tình cuồng say... Nov. 17'
******* Rừng xưa thưa lá, tích xưa chẳng dời *******
Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 189 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tớị Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương laị
2) Ðể rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe),
xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về:
GiaoMua@hotmail.com
Nguyệt San Giao Muà
Homepage: http://www.GiaoMuạcom
Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà:
Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất :
1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode
2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệụ Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy
3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc
4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện.
5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng
6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com
Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệụ
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA
Trang Nhà